Thật là một sự trùng hợp thú vị khi ở nước ta có Hòa thượng Cua (Tông Diễn thiền sư) với đức hạnh cao vời, ở Trung Quốc cũng có Hòa thượng Tôm hành tung kỳ bí, siêu phàm ít ai sánh được.
Cao Tăng dị truyện kể rằng:
“Hòa thượng Tôm tên thật là Trí Nghiễm ở chùa Tĩnh Am, Hoa Ðình (Trung Quốc). Một hôm, vào ngày rằm tháng Bảy, dân làng tổ chức lễ Vu lan nên Tăng chúng trong chùa được thỉnh đi hết, chỉ còn sư ở chùa. Rồi gia đình vị thôn trưởng đến chùa thỉnh Tăng, vì không còn ai nên sư nhận lời. Sư bảo:
- Hãy về trước sắp đặt, ta sẽ đến sau.
Sư lên thuyền, giữa đường thấy người câu tôm, sư bảo người chèo thuyền ghé lại mua một đấu rồi xin nước và ăn tôm sống, nuốt trọng mà không nhai. Ăn xong, sư bảo người câu tôm rằng:
- Ta đi dự đám, lúc về sẽ trả tiền.
Rồi giục người chèo thuyền chèo mau kẻo trễ. Ðến làng, người chèo thuyền nhịn không nỗi, kể lại cho mọi người nghe. Nhà đám nghe được, khinh bỉ không mời sư ngồi trên, trải chiếu dưới đất, có cơm mà không cúng dường để làm nhục. Sư vẫn tỉnh tuồng, vui vẻ như không có gì xảy ra. Lúc về, gặp người câu tôm, sư cười nói:
- Xui quá! Hôm nay dự trai mà không có tiền, biết tính sao đây?
Người câu tôm nói:
- Không tiền thì trả tôm lại cho tôi!
Sư đáp:
- Việc này dễ thôi!
Rồi xin nước uống, ọe ra tôm sống đầy một đấu, đem trả lại. Mọi người thấy vậy vô cùng kinh ngạc, nhân đó gọi sư là Hòa thượng Tôm (Hà Tử Hòa thượng, hà tử chữ Hán nghĩa là con tôm).
Cuộc đời Hòa thượng Tôm được người dân địa phương truyền tụng với nhiều chuyện ly kỳ. Ðến lúc sắp tịch, sư lượm cỏ bồ kết thành xâu hơn vạn dây, treo ở hiên nhà, nói với mọi người:
- Ta muốn gieo duyên với quý vị.
Nói rồi bèn ngồi kiết già thị tịch. Mọi người tranh nhau đến cúng tiền đầy hết các dây treo. Số tiền ấy được dùng để xây dựng điện Phật. Ðến nay, chùa vẫn được gọi là Ðạo tràng Hà Tử”.
Những vị thiền sư hành hóa trong dân gian với nghịch hạnh, trái ngược các chuẩn mực thông thường kiểu Tế Điên Hòa thượng không phải là hiếm thấy trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền.
Không ai mà chẳng biết Lục tổ Huệ Năng ít chữ, đọc kinh không trôi. Ấy vậy mà ngài đã khơi nguồn tuệ giác cho dòng thiền Tào Khê luôn rạng ngời và tiếp nối đến tận ngày nay. Phải chăng hiện tướng “mù chữ” chỉ để khẳng định một điều: ngôn từ chữ nghĩa chẳng qua là phương tiện ban đầu nhập đạo. Hành giả cần phải buông bỏ chữ nghĩa và tri thức mới mong đạt đến sự chứng ngộ tự tánh.
Ai chưa một lần tìm hiểu về cuộc đời Thiền sư Hư Vân thì khó hình dung được một vị xuất gia được tôn xưng là Tổ sư Thiền mà tóc dài xõa ngang vai, có giai đoạn phải ẩn dật trong núi rừng như thổ phỉ. Phải chăng nhờ hiện tướng tiều phu ẩn náu nơi miền sơn cước mà thiền sư vượt qua pháp nạn để duy trì và truyền thừa mạng mạch Phật pháp.
Tế Điên Hòa thượng lại càng kỳ quái hơn khi Tăng chẳng ra Tăng mà tục cũng chẳng ra tục. Tuy vậy, hành tẩu của ngài thật phi phàm, dự liệu việc chưa đến như thần. Dù hành vi và nói năng thô tháo nhưng mỗi mỗi đều có tác dụng cứu nhân độ thế.
Gần đây thôi, khi Bồ tát Quảng Đức xây dựng rất nhiều ngôi chùa mà không trụ, tiếp tục ra đi và lại xây cất thêm chùa mới khiến nhiều người thời bấy giờ không hiểu nỗi. Có người thắc mắc thì ngài trả lời dung dị rằng bây giờ đủ duyên thì xây chùa, sau này chưa biết ra sao. Về sau ngẫm lại việc làm của Bồ tát thật vô cùng thậm thâm vi diệu.
Cũng như Hòa thượng Tôm, ngài hiện tướng không chay tịnh. Ăn tôm đã là phạm trai mà ở đây sư còn ăn cả tôm sống và ăn thiếu chờ trả tiền sau mới hãi. Điều đáng nói là dù đã ăn vào bụng cả ngày rồi nhưng khi cần thì sư lại nôn ra tôm còn sống trả lại cho người bán. Đến đây thì… miễn bàn, vì hành tung này không phải của người phàm. Cũng nhờ vậy mà về sau mọi người kính thờ sư như Phật sống, luôn vâng lời ngài bỏ ác làm lành, quy hướng Tam bảo.
Trong cảnh giới phàm thánh đồng cư mà chúng ta là người trần mắt thịt nên khó mà biết được mật ý của các ngài. Vì thế không nên có thái độ xem thường, khinh suất trước những việc làm có tính nghịch hạnh. Bởi một khi hành giả đã tỏ ngộ chơn tâm thì dù cho hành hoạt thế nào cũng tràn đầy trí tuệ và từ bi, đều “vì an lạc, lợi ích cho số đông, vì hạnh phúc cho chư thiên và loài người”.
Tâm Văn - Quảng Tánh