Vĩnh Minh Tự Viện

Saturday, Nov 23rd

Last update09:58:49 AM GMT

Đường dẫn hiện tại Phật Học Kinh Chứng Đạo Ca

Chứng Đạo Ca

Email In PDF
Mục lục bài viết
Chứng Đạo Ca
Tiểu Dẫn
Thi ca 1: Cái thấy của người chứng đạo
Thi ca 2: Cái thấy của người chứng đạo về Nhơn Pháp
Thi ca 3: Cái thấy của người chứng đạo Sự mầu nhiệm của Như Lai Thiền
Thi ca 4: Cái thấy của người chứng đạo về Tội phước và Thiện ác
Thi ca 5: Cái thấy của người chứng đạo về Tĩnh Tâm vô niệm
Thi ca 6: Cái thấy của người chứng đạo xả Ngã xả Pháp là thành Phật
Thi ca 7: Cái thấy của người chứng đạo về lập trường và lý tưởng của mình
Thi ca 8: Cái thấy của người chứng đạo Tâm tánh là ngọc ma ni
Thi ca 9: Cái thấy của người chứng đạo mối tương quan của ngũ nhãn và ngũ lực
Thi ca 10 Cái thấy của người chứng đạo Những phút giây tự nhủ
Thi ca 11: Cái thấy của người chứng đạo với danh xưng Bần đạo
Thi ca 11: Cái thấy của người chứng đạo với danh xưng Bần đạo
Thi ca 12: Cái thấy của người chứng đạo về chủng tánh và căn cơ
Thi ca 13: Cái thấy của người chứng đạo vấn đề thị phi
Thi ca 14: Cái thấy của người chứng đạo về sự hủy báng
Thi ca 15: Cái thấy của người chứng đạo Định tuệ là nhân tố quyết định quả Bồ đề Niết bàn
Thi ca 16: Cái thấy của người chứng đạo về chánh pháp của Như Lai
Thi ca 18: Cái thấy của người chứng đạo về Đại Thừa Thiền
Thi ca 19: Cái thấy của người chứng đạo về sinh tử
Thi ca 20: Cái thấy của người chứng đạo về thú vui của thiền giả
Thi ca 21: Cái thấy của người chứng đạo không nên trụ pháp tu phương tiện
Thi ca 22: Cái thấy của người chứng đạo nhìn bao quát nắm trọng tâm
Thi ca 24: Cái thấy của người chứng đạo sự lý tương ho
Thi ca 23: Cái thấy của người chứng đạo vững chánh niệm trong mọi thời
Thi ca 25: Cái thấy của người chứng đạo vọng, chân đều vọng
Thi ca 26: Cái thấy của người chứng đạo… nhất thiết duy tâm…
Thi ca 27: Cái thấy của người chứng đạo cảnh giác về ý niệm chấp của chính mình
Thi ca 28: Cái thấy của người chứng đạo vấn đề xả bỏ và tìm lấy
Thi ca 29: Cái thấy của người chứng đạo chế tâm nhất xứ vô xự bất biện
Thi ca 30: Cái thấy của người chứng đạo Bát nhã phong hề…
Tất cả các trang

Trực chỉ đề cương

Nguyên tác: Huyền Giác Thiền Sư

Biên dịch: Từ Thông Thiền Sư

Sài Gòn 1998 - 2543

---o0o---

MỤC LỤC


TIỂU DẪN

CHỨNG ĐẠO CA là tác phẩm thi ca được viết ra, nói lên trình độ nhận thức chân lý, khả năng thiền quán tư duy, sâu sắc của tác giả đối với chánh pháp liễu nghĩa thượng thừa của đạo Phật. Tác phẩm có năm mươi sáu thi ca, gồm hai trăm tám mươi tám câu. Mỗi thi ca là một "ngọn đèn pha" cực mạnh quét sạch hết những bóng đêm tà kiến. Mỗi câu là một làn gió nhẹ, vừa mát mẻ, vừa thổi tan những đám mây mù huyễn hoặc, vu vơ, cho bầu trời chân lý hiển lộ lồng lộng, một màu trong xanh ngăn ngắt.

Tư tưởng ở nội dung, ngữ ngôn văn tự qua hình thức đáng được tôn vinh là khúc ca CHỨNG ĐẠO của con người CHỨNG ĐẠO. Do vậy, tác phẩm có cái nhan đề CHỨNG ĐẠO CA, thiết tưởng không phải là ngôn từ cường điệu.

Tác giả CHỨNG ĐẠO CA là Huyền Giác Thiền Sư. Sử sách Phật giáo Trung Hoa không nói nhiều về tông chi gia phả, chỉ nói Sư là con của gia đình họ Đới. Sanh vào năm 665 và mất năm 713 đời nhà Đường. Quê của Sư ở huyện Vĩnh Gia, xưa thuộc châu ÔN, nay là tỉnh Chiết Giang ở Trung Quốc. Sư xuất gia vào tuổi ấu niên, tư chất thông minh, ham tu hiếu học, đọc nhiều kinh điển Phật đến độ tinh thông. Những kinh điển thuộc hệ tư tưởng liễu nghĩa thượng thừa như Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Đại Phương Quảng Viên Giác, Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Kinh Duy Ma Cật, Kinh Bát Nhã, Kinh Pháp Hoa, Kinh Niết Bàn… Sư vận dụng một cách vô cùng thông minh, tài tình và "lợi hại" trong việc "công phá" tà kiến ngoại lai, hiển dương chánh pháp Đại thừa, mở đường chỉ lối cho những ai chủng tánh Đại thừa muốn đi con đường "đại ngộ".

Bỉ nhân tôi, là một hậu học vô lậu quả văn, hữu duyên được nghiền ngẫm tác phẩm CHỨNG ĐẠO CA. Khi đọc tôi cảm nghe như thân tâm bay bổng ra khỏi hết mọi vướng mắc ở cõi đời, mà từ lâu mình lầm lạc, tự trói thân để chịu cực nhọc, tự quản thúc tâm để ưu tư, sợ hãi triền miên. Tâm đắc sâu đậm, sung sướng tràn dâng, tôi phấn đấu vượt trở ngại: "mặt mờ". Thị lực yếu, tôi vẫn quyết chí dịch tác phẩm CHỨNG ĐẠO CA từ Hán văn ra Việt văn bằng thể văn có âm điệu và tiết tấu để đọc cho dễ nhớ. Rồi sau đó, viết phần TRỰC CHỈ để bình thêm…

CHỨNG ĐẠO CA là một tác phẩm văn học của Phật giáo Trung Hoa và cả Phật giáo Việt Nam nữa.

CHỨNG ĐẠO CA là một giáo án, tôi soạn để giảng cho Tăng Ni sinh các trường, lớp Cao Đẳng Nội Minh.

CHỨNG ĐẠO CA là tiếng sấm long trời để đánh thức những ai mệnh danh là đệ tử Phật mà mãi li bì, ngủ say sưa trong mộng mị mê tín, hoang đường.

CHỨNG ĐẠO CA là ngọn đuốc thiêng bất diệt dành cho những chủng tánh Đại thừa tiến bước trên lộ trình đại ngộ.

Viết tại THAO HỐI AM.        

Ngày Rằm tháng 7 năm Đinh Sửu

(1997 – 2541)                 

Dịch giả

Cẩn bút


THI CA 1

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO

Phiên âm:

QUÂN BẤT KIẾN!

Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân

Bất trừ vọng tường bất cầu chân

Vô minh thực tánh tức Phật tánh

Ảo hóa không thân tức pháp thân

Pháp thân giác liễu vô nhất vật

Bản nguyên tự tánh thiên chân Phật

Ngũ uẩn phù hư không khứ lai

Tam độc thủy bào hư xuất một

Dich nghĩa:

Ai có biết !

Bậc tuyệt học vô vi nhàn đạo

Vọng không trừ, tưởng chẳng cầu chân

Tánh của vô minh và Phật tánh không hai

Phật Tánh ấy! Chính là thật tánh của Vô Minh đấy!

* Thân ảo hóa với Pháp thân cũng vậy

Ảo hóa thân là hiện tượng của Pháp thân

Biển Pháp thân ví: bản thể vô cùng

Thân ảo hóa tựa sóng mòi lao xao trên mặt nước

* Nhận thức rõ hai thân pháp hóa (1)

Chợt tỉnh ra rằng: "vạn pháp giai không"

Tánh thiên chân là thật tánh của mình

Mình là Phật vốn là thiên chân Phật

* Thân ngũ uẩn chỉ là phù vân tụ tán

Hợp rồi tan trong vũ trụ bao la

Sự diệt sanh, sanh diệt vô cùng

Nó hiện hữu với thời gian vô tận

* Gọi tam độc thực tánh không hề độc

Ví như bọt bèo, sanh diệt huyễn hư

Hể u mê thì tam độc hoành hành

Bằng tỉnh thức, không sao tìm được chúng.

TRỰC CHỈ

Đi con đường Đạo, thường phải qua ba giai đoạn. "Học đạo", Hành đạo" và "Chứng đạo". Đến giai đoạn CHỨNG ĐẠO, được gọi là con người "nhàn đạo". Người "nhàn đạo" là người đã vượt qua giai đoạn "học đạo" và "hành đạo". Vì vậy, người "chứng đạo" còn được gọi là người TUYỆT HỌC, là người đạt đến VÔ VI, cho nên bậc TUYỆT HỌC, VÔ VI, NHÀN ĐẠO tức là con người CHỨNG ĐẠO.

Cái thấy của người chứng đạo, không thấy qua cái thấy của nhục nhãn bình thường mà thấy bằng "Tuệ nhãn". Về "cái thấy", giáo lý đạo Phật dạy có năm cách nhìn thấy khác nhau. Dựa trên thành quả tu chứng mà cái thấy của người học đạo, hành đạo và chứng đạo đối với hiện tượng vạn hữu chia thành năm cách thấy: Cái thấy qua "nhục nhãn". Cái thấy qua "thiên nhãn". Cái thấy qua "pháp nhãn". Cái thấy qua "tuệ nhãn". Cái thấy qua "Phật nhãn". Cái thấy qua "nhục nhãn" là cái thấy "tầm thường". Cái thấy qua "thiên nhãn" là cái thấy "bình thường". Cái thấy qua "pháp nhãn" là cái thấy của người "đạt đạo", của hàng Tiểu thừa THANH VĂN, DUYÊN GIÁC. Cái thấy qua "Tuệ nhãn" là cái thấy của người CHỨNG ĐẠO, cái thấy của căn cơ Đại thừa, của Bồ tát trên đoạn đường gần đến VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC của "Phật nhãn".

Người CHỨNG ĐẠO, nhìn thấy thấu triệt bản chất căn nguyên của vạn pháp. Nói cách khác, người chứng đạo nhìn hiện tượng vạn pháp họ thấy được cái "thực tướng" của vạn pháp. Họ biết rất kỹ rằng cái tướng thực của vạn pháp là "không có gì". Tất cả chỉ là duyên sanh, mà duyên sanh thì như huyễn, không thật có.

Qua cái thấy của con người chứng đạo, "vọng tưởng" đã là vọng thì còn quan tâm, còn mơ tưởng, còn kết giao, gá nghĩa với nó được sao? Biết nó vọng thì mình đã "không vọng". Không vọng là đã tự "chơn" rồi. Do vậy, "vọng" không phải "trừ", "chơn" không cầu, không cần "mơ ước" mà tự có.

Nước trong, trăng hiện, mây tan, trời hiện, phiền não vô minh hết, Phật tánh hiện. Trăng vốn sẵn có trong lúc nước ao hồ vẩn đục. Phật tánh thanh tịnh vốn có trong lúc con người biểu lộ đầy những phiền não vô minh đau khổ. Giác là Phật, mê là tục tử phàm phu.

"Không trừ vọng tưởng, chẳng cầu chân".

"Thật tánh của vô minh là Phật tánh".

Kinh điển Phật thường để cập "Tam thân" của con người chứng đạo. Pháp thân là cái bản thể châu biến. Về thời gian xuyên suốt quá khứ, hiện tại và vị lai. Về không gian khắp cùng đông, tây, nam, bắc, tứ duy, thượng hạ. Từ Pháp thân đó, duyên sanh ra các hiện tượng vạn hữu. Ảo hóa thân là một hiện tượng trong vô vàn hiện tượng "duyên sanh". Vì thế cho nên ảo hóa thân không ngoài Pháp thân. Từ nơi Pháp thân duyên khởi sanh ra ảo hóa thân. Ảo hóa thân và Pháp thân, không phải LÀ mà không phải KHÔNG LÀ. Đó là chân lý "Bất tức, bất ly", trung đạo. Bảo rằng: lu, hũ, chum, ché, không phải đất. Đúng, nhưng không đúng trọn vẹn. Bảo rằng: lu, hũ, chum, ché là đất. Đúng, nhưng cũng không đúng trọn vẹn. Mà phải hiểu rằng: lu, hũ, chum, ché không "là" đất nhưng chúng không ngoài đất. Đất không phải là lu, hũ, chum, ché, nhưng ngoài đất không làm sao có lu, hũ, chum, ché.

Người biết học đạo, hành đạo theo chánh pháp, không xem khinh thân ảo hóa, vì biết rằng thân ảo hóa là diệu dụng duyên khởi của Pháp thân. Thân ảo hóa và Pháp thân "bất tức mà bất ly" như đồ gốm và đất sét của đại địa mênh mông kia vậy.

"Ảo hóa không thân tức Pháp thân"

Nhận rõ và thực chứng được bản thể thanh tịnh châu biến, chuyên sanh mầu nhiệm của Pháp thân, bấy giờ chợt tỉnh và thấy rằng tất cả hiện tượng vạn hữu có cùng một bản thể chung cùng, chỉ do nhân duyên không đồng mà có sự sai khác. Dù hiện tượng vạn hữu có ngàn sai muôn khác nhưng cái thấy của người chứng đạo: Tất cả cùng một thể thanh tịnh không hề có sự vật nầy là nguyên nhân, gây đau khổ cho sự vật nọ.

"Pháp thân giác liễu vô nhất vật".

"Vô nhất vật" là do "người chứng đạo" sử dụng tuệ nhãn, nhìn vạn pháp bên mặt Tổng. Thấy có nhiều "vạn vật" tại vì dùng nhục nhãn nhìn vạn pháp bên mặt Dị Biệt duyên sanh của nó.

Từ nhận thức đó, người chứng đạo thấy rằng: "duyên sanh" vạn pháp "vô tình" cũng như "duyên sanh" vạn loại "hữu tình", cùng có chung một "bản nguyên", một cội nguồn thanh tịnh là "Thiên chân Phật".

"Ngũ uẩn phù hư không khứ lai

Tam độc thủy bào hư xuất một".

Dưới con mắt của người chứng đạo, thân con người kết hợp bởi ngũ uẩn, duyên sanh. Vì duyên sanh cho nên thân của phàm nhân hay thân của thánh đức đều chung một dạng "phù hư". Vì là "phù hư" cho nên nó sanh diệt, khứ lai, tụ tán. Cái điểm ưu việt khác hơn người của con người chứng đạo là họ thấy rõ và biết kỹ rằng phù vân dù có sanh diệt, khứ lai, tụ tán nhưng nó không bao giờ mất mà nó vĩnh cửu khứ lai, sanh diệt, tụ tán trong bầu hư không vốn dĩ bất sanh bất diệt. Dưới cái nhìn của người chứng đạo, vấn đề sanh tử chỉ là chuyện tầm thường như vô vàn sự vật diệt sanh tan hợp khứ lai bình thường khác.

Tham, sân, si, nhà Phật gọi chúng là "Tam độc". Vì tánh tác hại của chúng gây cho loài người không sao kể hết những biến chứng khổ đau cùng cực do chúng gây ra. Nhưng bình tâm mà nói. Vận dụng tuệ nhãn mà nhìn thì "tam độc" không có thực tánh. Tam độc cũng có thể xuất hiện khiến cho con người khổ đau cùng cực. Tam độc cũng có thể biến mất không để lại một bóng dáng, một dấu vết xấu xa nào. Tam độc có hay không có tùy thuộc ở con người MÊ hay GIÁC. Thực chất của tam độc là không có chất. Chúng như những bong bóng nổi chìm sanh diệt của những cơn sóng vỗ mặt ghềnh! Hiểu rõ chân lý đó, đối với sự tử sanh, sanh diệt của tự thân cũng như của hiện tượng vạn pháp, người chứng đạo thấy bằng cái thấy bình tĩnh, an nhiên, không có gì phải lo âu, phải sợ hãi. Chẳng những thế, người chứng đạo còn thấy biết rõ: Khi mình sanh ra từ đâu và đến và lúc chết sẽ đi về đâu!


THI CA 2

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO

VỀ NHƠN PHÁP

Phiên âm:

Chứng thực tướng vô nhơn pháp

Sát na diệt khước a tỳ nghiệp

Nhược tương vọng ngữ cuống chúng sanh

Tự chiêu bạt thiệt trần sa kiếp

Dịch nghĩa:

Chứng "thật tướng" thấy rõ cõi đời "vô tướng"

VÔ TƯỚNG đồng với "vạn pháp giai không"

Tướng "PHÁP", "NHƠN" mà còn chẵng có gì!

A tỳ nghiệp vì gì mà hiện hữu

Đấy lẽ thật, đây lời nói thật

Nói cho mình và hy vọng đến với ai kia

Không có ý chi dối gạt phỉnh phờ

Được phép thệ! Dù thề độc cũng xin cam nhận

TRỰC CHỈ

Người chứng đạo quán triệt thật tướng của vạn pháp là vô tướng, người ta sẽ không còn chấp NHƠN và PHÁP. Do diệt bỏ ý niệm chấp mà tâm hồn thanh thoát khinh an đến độ tự tại NHƯ NHƯ BẤT ĐỘNG. Vì vậy, cái gọi là nghiệp A tỳ nếu có, cũng tự hóa giải tiêu dong. Đó là sự thật mà đạo lý có thể chứng minh.

Nghiệp A tỳ nếu có, nó phát nguyên từ ý niệm chấp mắc. Chấp nhơn và chấp pháp là hai đối tượng chấp, nó sanh ra vô vàn đâu khổ và là nguyên nhân đau khổ. Tám mươi bốn ngàn trần lao phiền não đều do hai thứ chấp VÔ NHƠN mà ra. Thấy biết rõ tánh chất VÔ NHƠN, VÔ PHÁP thì diệt hết khổ nạn A tỳ trong sát na là chân lý đương nhiên vậy.

Người học Phật, tu Phật không được THỀ. Vì thiết tha với chân lý, vì muốn truyền trao chánh pháp trong sáng cho mọi người con Phật, tác giả CHỨNG ĐẠO CA, phải thốt ra lời: như cam kết, như tự THỀ để nói lên nỗi lòng thành thật và tha thiết đối với chánh pháp.

"Được phép thệ, dù thề độc cũng xin cam nhận".


THI CA 3

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO

SỰ MẦU NHIỆM CỦA NHƯ LAI THIỀN

Phiên âm:

Bốn giác liễu Như Lai thiền

Lục độ vạn hạnh thể trung viên

Mộng lý minh minh hữu lục thú

Giác hậu không không vô đại thiên

Dịch nghĩa:

Thoắt chứng nhập NHƯ LAI thiền định

Vạn hạnh tròn mà lục độ cũng châu viên

Còn mộng mơ, thấy có sáu nẻo luân hồi

Khi tỉnh thức, cõi Ta bà tìm không ra dấu vết

TRỰC CHỈ

Người tu hành, đến một lúc nào đó có thể chợt tỉnh thức và khi tỉnh thức người ta có khả năng thể nhập, đi sâu vào Như Lai Thiền. Như Lai Thiền là thứ Thiền chỉ khi nào đền địa vị Như Lai mới có. Thể nhập Như Lai Thiền đối với vạn pháp không cần tu mà vạn hạnh tự nhiên đã sẵn đủ. Thể nhập Như Lai Thiền với lục độ không cần hành mà hành một cách viên mãn rồi. Bởi vì Như Lai Thiền là thứ Thiền viên mãn và siêu viên mãn nữa.

Vậy NHƯ LAI THIỀN là THIỀN như thế nào?

Đáp: Như Lai Thiền là Thiền kkhông cần ngồi, vì nó vượt cái cần thiết ngồi. Như Lai Thiền không cần định tâm vắng lặng, vì nó vượt ngoài cái cần thiết định tâm vắng lặng. Như Lai Thiền là thứ Thiền không cần gia công dụng ý để thiền, mà thiền trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi và thiền ở mọi nơi chốn, ở mọi thời gian. Như Lai Thiền là kết quả, là THIỀN RỔI tất cả tám muôn bốn ngàn thứ thiền khác. Cho nên tỉnh thức và thể nhập Như Lai Thiền thì không đức tốt, hạnh lành nào là không viên mãn.

Thành quả của Như Lai Thiền được đúc kết qua các tiêu chuẩn như sau:

Thân vô thất

Khẩu vô thất

Ý vô thất

Nhất thiết thân nghiệp tùy trí tuệ hành

Nhất thiết khẩu nghiệp tùy trí tuệ hành

Nhất thiết ý nghiệp tùy trí tuệ hành

Trí tuệ tri quá khứ vô ngại

Trí tuệ tri hiện tại vô ngại

Trí tuệ tri vị lai vô ngại

Vô dị tưởng

Vô bất định tâm

Vô bất tri. Tri hỉ xả

Dục vô giảm

Niệm vô giảm

Định vô giảm

Tinh tấn vô giảm

Giải thoát vô giảm

Giải thoát tri kiến vô giảm

Có ngần ấy tiêu chuẩn thì những đức tốt, hạnh lành trên cõi đời này có cái thứ nào mà còn thiếu! "Lục độ vạn hạnh thể trung viên", đối với con người "Đốn giác liễu Như Lai Thiền" hẳn không phải là thứ danh ngôn cường điệu.

Người đệ tử Phật có học Phật thật, có ham tu thật và có hiểu kỹ về Phật, người ta không thèm sợ sáu nẻo luân hồi như là: cảnh giới địa ngục, cảnh giới ngạ quỷ, cảnh giới súc sanh, cảnh giới người, cảnh giới A-tu-la và cảnh giới trời ở ngoại cảnh. Mà người ta chỉ quan tâm "Lục Thú" ở nội tâm. Lục thú ở nội tâm nó trực tiếp tác động hoành hành cuộc sống hiện tại của con người. Đó mới là đáng lo sợ.

Không sợ sự luân hồi của lục thú nội tâm mà chỉ lo sợ cho sự luân hồi lục thú ở kiếp tương lai thì quả là con người giàu tưởng tượng! "Chẳng khác chi người chưa làm giàu mà sợ ăn cướp. Chưa ăn cướp mà lo sợ ở tù!".

Vấn đề "đại thiên thế giới, cõi Ta bà" có hay không? Vấn đề "Tây phương Cực lạc" không hay có? Đó là vấn đề người học Phật phải quán triệt sâu sắc.

Y cứ nền giáo lý liễu nghĩa thượng thừa và sử dụng tuệ nhãn mà nhìn vũ trụ vạn hữu trong pháp giới mười phương, thì pháp giới chỉ có một. Pháp giới "nhất chân" không có hai, không có pháp giới nào khác với pháp giới nào. Pháp giới có cùng một bản thể "chân như" y nhau. Vì "chân" cho nên không thể tiêu hoại cho mất đi. Vì "như" cho nên không tăng bổ cho thêm nhiều. Vì "chân như" cho nên mười phương pháp giới đồng một thể: Bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Qua cái thấy của tuệ nhãn, chỉ nói tuệ nhãn của người chủng tánh Đại thừa thôi, pháp giới đã là "nhất chân" rồi. Do nghĩa đó, người chứng đạo thấy rõ ràng.

"Còn mộng mê, thấy có sáu nẻo luân hồi

Khi tỉnh thức, cõi Ta bà tìm không ra dấu vết".

Người đệ tử Phật có chánh niệm, có tư duy, có quán chiếu nội tâm sẽ thấy rõ cái chân lý đó.

Kinh Hoa Nghiêm đức Phật dạy:

"Nếu ai muốn biết rõ

Mười phương Phật ba đời

Nên quán chiếu thể tánh của Pháp giới

Hết thảy do tâm mình kiến lập"

Do vậy:

"… Còn mộng mê, thấy có sáu nẻo luân hồi

Khi tỉnh thức, cõi Ta bà tìm không ra dấu vết".

---o0o---


THI CA 4

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO

VỀ TỘI PHƯỚC VÀ THIỆN ÁC

---o0o---

Phiên âm:

Vô tội phước, vô tổn ích

Tịch diệt tánh trung mạc vấn mịch

Tỉ lai trần kính vị tằng ma

Kim nhật phân minh tu phẫu tích

Dịch nghĩa:

+ Tội là chi, phước lại là chi?

Đa mang chi hai gánh nặng như chì!

Ai bắt tội? Ai là người chịu tội?

+ Thiện là chi, ác cũng lại là chi?

Sợ làm chi hai danh tự vô nghì!

Sợ cái đáng sợ! Lương tâm tự hành hạ lấy.

+ Gương lòng sáng, xưa nay ta vốn có

Mặc cho bụi mờ vĩnh viễn chẳng quan tâm

Ngày hôm nay, có cơ hội lau chùi

Sáng soi thấy, "phước" và "tội" không ai ban ai phạt!

TRỰC CHỈ

Nền giáo lý Phật nhằm đào tạo cho con người đức tánh tự tôn. Cái nhân bản của con người là tối tôn và hoàn toàn trong sáng. Con người hãy phát huy đức tánh vốn có ấy để mà sống một cách tự tin ở khả năng, ở nơi nhân bản cao đẹp vốn có của mình.

Người đệ tử Phật không tôn trọng ai khác, ngoài nhân bản thanh cao trong sáng, mà tác giả Chứng Đạo Ca gọi cái đó là "Bản nguyên tự tánh thiên chân Phật" của chính con người. Vì vậy, người đệ tử Phật, học Phật, tu theo đạo Phật không được sợ bất cứ một thế lực "linh thiêng", một sức mạnh vô hình hay một đấng thưởng phạt siêu nhiên nào đó, như một số người nhẹ dạ dễ tin thường sợ. Người theo đạo Phật chỉ sợ nhân quả. Tâm não của con người là "căn cứ địa" phát xuất và biểu hiện ra "nghiệp nhân" THIỆN hay ÁC. Chữ "nghiệp" trong đạo Phật chỉ sự hành động của THÂN của KHẨU của Ý được biểu hiện cụ thể. Gieo nghiệp nhân THIỆN sẽ������#7863;t hái trái ngon, tốt lành. Gieo nghiệp nhân BẤT THIỆN cũng sẽ được thu hoạch trái không ngon, cay đắng… Nhân thế nào quả thế ấy, như bóng theo hình. Chung qui lại, do TÂM làm chủ hết. Tạo nghiệp nhân thiện hay ác, sẽ tự nhận lấy quả khổ hay vui. Hễ nhận lấy quả khổ thì người ta cho là do mắc TỘI. Nếu nhận lấy quả vui thì người ta cho là được PHƯỚC. TỘI hay PHƯỚC rõ ràng chỉ là kết quả của con người gieo nhân THIỆN hay ÁC ở thời gian trước đó mà thôi.

Đúng chân lý mà nói thì không ai là người có quyền ban cho và không ai là người phải chịu tội với ai cả.

Lập trường bình đẳng của đạo Phật, biểu hiện cụ thể qua tính "bình đẳng về nhân bản của mọi con người".

"Sáng soi thấy: TỘI, PHƯỚC không ai ban và ai phạt".

---o0o---


THI CA 5

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO

VỀ TĨNH TÂM VÔ NIỆM

---o0o---

Phiên âm:

Thùy vô niệm? Thùy vô sanh?

Nhược thực vô sanh vô bất sanh

Hoán thủ cơ quan mộc nhân vấn

Cầu Phật thi công tảo vãn thành

Dịch nghĩa:

* Ai là người thường ước mơ vô niệm

Ai là người hằng mong đạt đến vô sanh

Vô niệm vô sanh là ước mơ cuồng vọng hảo huyền

Rất oan uổng! Hóa đá một kiếp người tràn đầy linh động.

* Để trắc nghiệm, xin hỏi, "ông Robot" người máy

Quả Bồ đề! Bao năm tháng nữa, ông thành?

Hỏi là hỏi vậy thôi, hỏi tức trả lời

Ai can đảm, đủ sức chờ "ông" giải đáp.

TRỰC CHỈ

Tu đạo Phật, rất cần CHÁNH NIỆM mà không cần VÔ NIỆM. Có thể nói: Có chánh niệm là có tất cả đức tốt, hạnh lành. Có chánh niệm rất dễ thành công trên tám nẻo đường "bát chánh". Suốt cuộc đời hóa đạo chúng sanh, đức Phật không lúc nào rời chánh niệm. Chánh niệm nuôi lớn ngũ căn, chánh niệm phát triển ngũ lực, chánh niệm gìn giữ thất thánh tài, chánh niệm trưởng dưỡng thất giác chi. Chánh niệm cũng là chất liệu bổ dưỡng để tưới tẩm, để đượm nhuần cho quá trình phát triển của 18 pháp bất cộng của Như Lai Phật.

Tu Phật mà mong cầu VÔ NIỆM là tu sai. Vô niệm thì còn ai để biết, để tư duy chân lý và những gì phi chân lý!

Tu mà cầu được vô sanh cũng là lối tu sai lạc. Trên cõi đời, có cái gì không biến chuyển vận hành sinh diệt? Đá gỗ còn không ra ngoài vòng vận động vô thường "hằng chuyển" sát na sanh diệt, huống hồ là một hữu tình "tối linh ư vạn vật"!

Mong trở thành người VÔ NIỆM, cầu được chứng đắc VÔ SANH là ý tưởng cuồng vọng sai lầm và không có ngày hiện thực. Giả sử cái ngày hiện thực đến, con người VÔ NIỆM VÔ SANH "tệ" hơn loài khoáng vật, thực vật vô tình… Con người hữu tình, vốn có tri giác lại trở thành người máy có "cơ quan" điều khiển vậy thôi sao?

Việc làm của người tu hành, tương tợ như việc làm của người huấn luyện khỉ. Người huấn luyện khỉ có tài là "thuần hóa" được khỉ, dạy khỉ làm trò, làm xiếc… theo ý muốn của mình. Chứ huấn luyện khỉ làm cho "óc khỉ" trở thành chứng bệnh phân liệt, không còn hoạt động được gì, đó không phải là cách huấn luyện khỉ của người có tài, có trí.

VÔ SANH là một ý niệm mà người tu Phật phải từ bỏ dứt khoát. Vô sanh đồng nghĩa với "đoạn diệt". Tự mình làm cho mình "rớt" vào hàng ngũ của ngoại đạo "đoạn kiến" là cách tu sai lạc, đáng thương!

---o0o---


THI CA 6

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO

XẢ NGÃ XẢ PHÁP LÀ THÀNH PHẬT

---o0o---

Phiên âm:

Phóng tứ đại mạc bả tróc

Tịch diệt tánh trung tùy ẩm trác

Chư hạnh vô thường nhất thiết không

Tức Thị Như Lai Đại Viên Giác

Dịch nghĩa:

* Thân tứ đại đừng sanh tâm chấp đắm

Quay trở về thể vắng lặng của chính mình

Đói thì ăn, khát uống ngại ngùng chi?

Gọi là Ngã thể, vẫn hư thì đời còn chi thật

* Các hành pháp luật vô thường chi phối hết

Tuệ nhãn nhìn, đương thể tức không

Hiểu sâu xa, quán chiếu tận nguồn chân

Tánh của vạn pháp, là NHƯ LAI VIÊN GIÁC

TRỰC CHỈ

Thân tứ đại là thân kết hợp bởi bốn chất: địa, thủy, hỏa, phong. Nó là cái thân bị lệ thuộc chi phối bởi luật vô thường như vạn vật hiện tượng khác. Nó còn là cái kết quả của khổ và bất an nhiều mặt. Kinh điển thường ví sự tạm bợ mong manh vô chủ của nó qua từ "huyễn thân". Ấy thế mà ở đời không có mấy ai thấy được tánh chất huyễn của nó. Trái lại người ra rất qúi trọng nó hơn bất cứ thứ gì trên cõi đời. Điều đáng nói là vì nó mà tạo nghiệp bất thiện, trong suốt cuộc đời để phục dịch vun bồi cho nó không có phút giây nhàm chán. Ý niệm đam mê luyến ái nặng nề về thân, kinh điển gọi đó là "chấp ngã", tức là quá tôn tọng cái thân. Rồi vì thân mà tạo ác nghiệp, vì thân mà chịu khổ…

"Thân tứ đại đừng sanh tâm chấp mắc

Quay trở về thể vắng lặng của chính mình

Đói thì ăn, khát uống ngại ngùng chi

Gọi là "ngã thể" vẫn hư, thì đời còn chi thật.

"Phóng tứ đại" con người sẽ nhẹ nhàng, sẽ có an lạc trong cuộc sống, vì con người vốn có tánh vắng lặng, thanh tịnh, trong sáng, có thể thọ dụng nó từ đời này sang đời khác vĩnh viễn không có cạn kiệt.

Nhận thấy được tánh chất "ngã không" thì "pháp không" không còn là vấn đề khó biết nữa. Chủ thể nhận thức đã là vô thường, vô ngã, khổ, bất tịnh và không, thì đối tượng nhận thức cũng không vượt qua ngoài sự chi phối đó! Cho nên người đạt đạo sẽ nhận thấy rõ:

"Chư hạnh vô thường nhất thiết không".

Thấy được tánh "giai không" của vạn pháp, thấy được tánh vô thường của hành pháp, thì cái NĂNG TRI và SỞ TRI đó trở thành một bầu vũ trụ NHƯ LAI VIÊN GIÁC nhiệm mầu. Lúc bấy giờ:

Ta không cầu thành Phật

Phật cũng chẳng cầu thành ta

Ta là Phật

Phật là ta.

---o0o---


THI CA 7

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO VỀ

LẬP TRƯỜNG VÀ LÝ TƯỞNG CỦA MÌNH

---o0o---

Phiên âm:

Quyết định thuyết, biểu chân tăng

Hữu nhơn bất khẳng nhiệm tình trung

Trực triệt căn nguyên Phật sở ấn

Trích diệp tầm chi ngã bất năng!

Dịch nghĩa:

* Nếu được nói, tôi lập trường thẳng thắng

Để tỏ ra, lời của một chân tăng

Huynh đệ nghe, nghịch ý chẳng chung lòng

Gay gắt trách, tôi xin cam nhận hết

* Tôi không thích ba hoa vặt vãnh

Thích học điều, Phật tổ đã đinh ninh

Diễn rõ căn nguyên "liễu nghĩa thượng thừa"

Không được vậy, tôi không còn gì để nói

TRỰC CHỈ

Quyết định thuyết là lời nói có lập trường, có trách nhiệm, nhàm bảo vệ mục đích và lý tưởng của mình. Lý tưởng của tác giả là chánh pháp liễu nghĩa thượng thừa của Phật tổ đã đinh ninh dặn dò khuyên dạy. Lập trường của tác gải là "nói thẳng, nói thật". Nói để diễn đạt chân lý, truyền bá chân lý liễu nghĩa thượng thừa cho mọi người con Phật cùng học hỏi, tiếp thu để hành đạo và chứng đạo. Không nói "vuốt đuôi". Không nói để "chiếm cảm tình". Không nói kiểu "thỏa hiệp". Không nói kiểu "phương tiện"… để rồi người nghe không được tí nào lợi ích.

Học chánh pháp, hành chánh pháp, sống theo chánh pháp và truyền bá chánh pháp không thể sử dụng các kiểu nói tầm thường vừa kể. Để bảo đảm giá trị lời nói của một "chân tăng", một vị thầy đúng danh nghĩa của đệ tử mình, lời nói phải có lập trường, phải phục vụ cho một lý tưởng giải thoát, giác ngộ tuyệt vời cao đẹp.

Một chân tăng, theo tác giả Chứng Đạo Ca, sẵn sàng chấp nhận cô đơn, chấp nhận sự công kích, sự thóa mạ… của mọi người. Hoặc sẵn sàng "không nói gì hết". Bao nhiêu ngôn ngữ nhường hết cho…

---o0o---


THI CA 8

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO

TÂM TÁNH LÀ NGỌC MA NI

---o0o---

Phiên âm:

Ma Ni Châu, nhân bất thức

Như Lai tàng lý thân thâu đắc

Lục ban thần dụng không bất không

Nhất lỏa viên quang sắc phi sắc

Dịch nghĩa:

* Tâm trong sáng người người ai cũng có

Nó là Ma Ni là Như Ý bảo Châu (1)

Chẳng mấy ai, biết rõ cái tâm này

Nó mầu nhiệm, thu gọn cả Như Lai tàng tánh (2)

* Sáu thần dụng, thấy sắc mà phi sắc (3)

Một viên quang, rằng không nhưng lại phi không (4)

Nghĩa sắc không, mầu nhiệm vô cùng

Chứng "thật tướng", mối nghi này mới mở hết.

TRỰC CHỈ

Con người ai cũng có Chân Tâm. Tự thể chân tâm vốn trong sáng, thanh tịnh, vắng lặng, nhiệm mầu. Trong Chân Tâm không có một gợn phiền não khổ đau, bất mãn, bất bình. Cũng không có ý niệm ta, người, thương, ghét, thân, sơ… Kinh điển Phật thường ví Chân Tâm ấy như Ngọc Ma Ni.

Ai cũng sẵn cóngọc Ma Ni mà không biết mình có ngọc Ma Ni quí báu ấy. Ngọc Ma Ni vô giá trong người mà không phát hiện để sử dụng cái công dụng NHƯ Ý của ngọc. Có ngọc Như Ý, con người sẽ không còn gì để "thiếu". Phát hiện ngọc Như Ý, sử dụng ngọc Như Ý, nhìn vạn pháp bằng "Phật nhãn" cho nên:

"Sáu thần dụng thấy sắc mà phi sắc

Một viên quang, rằng không nhưng lại phi không"

Vì, người phát hiện ngọc Như Ý, sử dụng ngọc Như Ý là người chứng thật tướng của vạn pháp rồi.

"… Chứng thật tướng vô nhơn pháp

Sát na diệt khước A tỳ nghiệp"…

---o0o---


THI CA 9

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO

MỐI TƯƠNG QUAN CỦA NGŨ NHÃN VÀ NGŨ LỰC

---o0o---

Phiên âm:

Tịnh ngũ nhãn, đắc ngũ lực

Duy chứng nãi tri nan khả trắc

Kính lý khán hình kiến bất nan

Thủy trung tróc nguyệt tranh niêm đắc

Dịch nghĩa:

Tịnh ngũ nhãn, sẽ kéo thêm ngũ lực

Chung môi trường mới biết được diệu dụng kia

Rủ giành trăng, đáy nước… chuyện còn khuya!

Đứng trước kính, ngắm thân hình là việc dễ!

TRỰC CHỈ

Giáo lý đạo Phật dạy rằng, con người có khả năng và quyền sử dụng "ngũ nhãn". "Khả năng" và "quyền" thì mọi người đều có quyền thừa hưởng, sử dụng bình đẳng. Tuy nhiên, đây là thứ bình đẳng có điều kiện. Mọi người phải cùng ở "môi trường TU" thì mới cùng được ở trong "môi trường CHỨNG".

"Tịnh ngũ nhãn" là người đạt đến giai đoạn CHỨNG. Ngũ nhãn đạt đến giai đoạn CHỨNG ĐẮC THANH TỊNH thì chỉ có người tự chứng tự biết. Người khác môi trường nói và kể cho họ bảo kể cho nghe, chẳng khác "Rủ nhau giành trăng ở đáy nước" hy vọng gì người khác môi trường bảo họ hiểu hoàn cảnh của riêng mình. Phải cùng đứng trong vườn LAN HUỆ mới cùng thưởng thức được mùi hoa Lan Huệ. Phải cùng đứng nơi chợ cá ươn mới thấm thía "hương vị" của chợ bán cá ươn.

Vì vậy, TỊNH NGŨ NHÃN, ĐẮC NGŨ LỰC là việc có thực, nhưng diễn đạt cảnh giới thanh tịnh của "ngũ nhãn" của mình cho người khác nghe biết là điều không dễ. Bảo người khác phải nghe và phải hiểu về cảnh giới CHỨNG ĐẮC của mình lại càng khó, khó đến nỗi tác giả Chứng Đạo Ca ví với chuyện "Rủ nhau giành trăng đáy nước".

Ngũ nhãn là năm thứ mắt, nói cách khác, năm cách "tư duy" mà cùng một cách ngó nhìn. Đó là: nhục nhãn, thiên nhãn, pháp nhãn, tuệ nhãn và Phật nhãn.

Ngũ nhãn thanh tịnh, con người tự có năm thứ sức mạnh, đủ sức tiến mạnh trên con đường Bồ Đề Vô thượng. Đó là:

CHÁNH TÍN, CHÁNH TINH TẤN, CHÁNH NIỆM, CHÁNH ĐỊNH VÀ TRÍ TUỆ BA LA MẬT.

Điều đó nói với ai? Dễ có mấy người biết! Dễ có mấy người tin! Đó là:

"… Duy chứng nãi tri, nan khả trắc"

Họ không tin, không có gì đáng trách, vì họ khác "môi trường"!

---o0o---


THI CA 10

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO:

NHỮNG PHÚT GIÂY TỰ NHỦ

---o0o---


Phiên âm:

Thường độc hành, thường độc bộ

Đạt giả đồng du Niết bàn lộ

Điệu cổ thần thanh phong tự cao

Mạo tụy cốt cang nhân bất cố

Dịch nghĩa:

* Tôi chấp nhận cô đơn trên đường đạo

Vui một mình, vui theo nhịp bước chân đi

Tôi những mong có pháp lữ chung lòng

Cùng tiến bước vào Niết-bàn thường lạc

* Không như ý, tôi nguyền làm người cổ lỗ

Sống theo mình, sống với gió mát trăng thanh

Dù xương trơ, thân đét, thịt teo gầy

Không ân hận, tôi vui với lập trường kiên định ấy.


TRỰC CHỈ

Những phút giây TỰ NHỦ của tác giả CHỨNG ĐẠO CA, HUYỀN GIÁC, nói lên ý chí quyết liệt và xác định lập trường kiên định của mình trên con đường hành Đạo. Thực vậy, tu hành mà không có mục tiêu cho ý chí vươn lên, không có lập trường để định hướng cho hành động, để rồi bạ đâu theo đó, "vui đâu chúc đó", "nghe đâu tin đó" thử hỏi một cuộc đời như thế con người đó sẽ ra sao?

Xác định lập trường là việc cần

Ý chí quyết liệt cũng là việc cần

Chấp nhận cô đơn cũng lại là việc cần.

Nhưng người tu hành cũng không biến mình trở thành một con người lập dị. Lập dị là một thói xấu trong muôn ngàn thói xấu. Cho nên lập trường của tác giả: có thể "cô đơn", có thể "vui một mình", nhưng rồi:

"… Tôi những mong có Pháp lữ chung lòng

Cùng tiến bước vào Niết-bàn thường lạc…"

Chưa hết, nếu ý chí đó, lập trường đó mà không được toại nguyện, vì một lý do gì đó thì tác giả lại xác định lập trường thêm một bước nữa: Tác giả có thể trở thành người lang thang nơi thâm sơn cùng cốc hoặc lê bước chốn cơ nội hoa đồng để được sống cho lý tưởng của mình mà mình đã vạch ra bằng bao nhiêu nhọc nhằn trên những năm tháng dài tu học.

Tác giả bằng lòng với cuộc sống đó:

"… Không như ý, tôi nguyện làm người cổ lỗ

Sống theo mình, sống với gió mát trăng thanh"

Cuối cùng, tác giả nâng lập trường lên một cấp cao hơn để "kiên định hóa" ý chí của mình trở thành như một lời tuyên thệ:

"… Dù xương trơ, thân đét, thịt teo gầy

Không ân hận, tôi vui, với lập trường kiên định ấy"

---o0o---



THI CA 11

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO

VỚI DANH XƯNG BẦN ĐẠO

---o0o---

Phiên âm:

Cùng thích tử, khẩu xưng bần

Thực thị thân bần đạo bất bần

Bần tắc thân thường phi lũ hạt

Đạo tắc tâm tàng vô giá châu

Vô giá châu, dụng vô tận

Lợi vật ứng cơ chung bất lận

Tam thân tứ trí thể trung viên

Bát giải lục thông tâm địa ấn

Dịch nghĩa:

* Người thích tử với danh xưng BẦN ĐẠO

Thân có BẦN, ĐẠO có BẦN chi!

BẦN biểu hiện áo khâu áo vá

ĐẠO không BẦN, tâm chứa NHƯ Ý châu (1)

* Ngọc NHƯ Ý, dùng sao cho hết

Nó chứa đầy TỨ TRÍ (2), TAM THÂN (3)

Vẹn LỤC THÔNG (4), BÁT GIẢI (5) cùng tròn

TÂM ĐỊA (6) sáng độ sinh vô cùng số.

TRỰC CHỈ

Người đạo sĩ trong đạo Phật hoặc cũng có hàng đạo sĩ không phải đạo Phật, thường tự xưng BẦN ĐẠO. Bần đạo là cái từ khiêm tốn nhún nhường, về kiến thức, đạo hạnh và phước đức… của một đạo sĩ. Nhưng theo tác giả Chứng Đạo Ca thì người đạo sĩ của Phật giáo phải là người giàu chứ không được nghèo. Người đạo sĩ phải phát hiện Như Ý châu vô giá của mình để lợi vật ứng cơ trên đường sự nghiệp.

Người đạo sĩ "Thân bần", "Khẩu bần" có lợi hơn. Nhưng tâm thì không thể "bần". "Thân bần", "Khẩu bần", hạn chế ngã mạn cống cao để tiến tới diệt trừ cái "bản ngã", vĩ đại tiềm phục trong A-lạy-gia thức của con người muôn thuở. Đạo tâm không thể "bần", cần có đủ những chất lượng như: Tam thân, tứ trí, bát giải, lục thông… và nhị đế dung thông tâm địa ấn nữa. Được vậy, mới thuyết pháp độ sinh, lợi mình, lợi người, mới là vị "thầy" đúng nghĩa của người "bần tăng" trong dòng thích tử. Cho nên người Thích tử:

… "Khẩu xưng BẦN, ĐẠO bất bần"

Cái Bần của người Thích tử nghèo biểu hiện mặc áo chấp "phước điền y". BẦN để làm ruộng phước cho chúng sanh, chớ không BẦN để than van, cầu cạnh, để "quyên tởi" quá nhiều cách ấy.

Theo ý chí của tác giả Chứng Đạo Ca, Huyền Giác thì BẦN ĐẠO của dòng họ Thích, là con người thân BẦN, khẩu BẦN còn tâm ý phải là đại phú, phải phát hiện NHƯ Ý châu vốn có của mình thì sự nghiệp mình mới rạng rỡ, mới xứng đáng ít nhất là "trung lưu chi sĩ" đó là cơ hội, là điều kiện… "Báo Phật ân đức của mình".

---o0o---



THI CA 12

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO VỀ CHỦNG TÁNH VÀ CĂN CƠ

---o0o---

Phiên âm:

Thượng sĩ nhất quyết nhất thiết liễu

Trung hạ đa văn đa bất tín

Đản tự hoài trung giải cấu y

Thùy năng hướng ngoại khoa tinh tiến?

Dịch nghĩa:

* Rồi tất cả, khỏi tu không cầu chứng

Đó là hạng Đại thừa, Thượng sĩ tối lợi căn

Diệt KIẾN TƯ diệt sạch hết cái TRIỀN

Rồi tất cả, mà khỏi để tâm tu chứng

* Bậc Trung hạ, những căn cơ thấp kém

Học thì nhiều, học trích cú tầm chương

Luôn mồm khoe, học vị với văn bằng

Cởi áo bẩn, còn không biết đường mở nút!

TRỰC CHỈ

Đứng bên "bình đẳng môn" thì Phật tánh ai cũng có như ai. Đứng bên "sinh diệt môn: thì vấn đề CHỦNG TÁNH, CĂN CƠ, góp phần rất quan trọng cho sự "nhất quyết" "nhất thiết liễu" của người tu hành. Phải cương quyết, phải nhất quyết, quyết định cho mình một hướng đi, một mục đích đến mà không thể do dự, phân vân bán nghi bán tín, bởi vì NGHI là một trong "Tư hoặc", trong "Thập sử", trong "Ngũ cái". Một khúc gỗ ở thượng nguồn, muốn trôi đến biển cả phải vượt qua năm điều cấm kkhông được trôi tắp hai bờ. Không để cho người vớt. Không theo nước xoáy mà thôi. Không vướng vào cồn đảo. Tự nó không ruỗng mục bên trong. Phải thẳng tắp mà trôi mới ra biển được. Chần chờ, do dự "không nhất quyết" thì không đến đích giải thoát giác ngộ được. Vì còn vướng, còn "tắp" chưa chịu trôi!

Học theo kiểu tầm chương trích cú, học hiểu để ngâm phong vịnh nguyệt, uốn ba tấc lưỡi nói chuyện trên mây, trên "trời" để dọa hù những người cả tin nhẹ dạ. Với cuộc sống của tự mình, việc làm, chuyện nói rặt mùi ám chướng u mê. Hở môi ra thì khoe khoang học vị văn bằng. Chạm mặt với phiền não đành nằm gác tay lên trán mà chịu đựng cho lương tâm hành hạ. Miệng oang oang nói về Cực lạc, Thiên đàng lòng u uẩn đắm chìm trong A tỳ ngục.

Đó là cái học của kẻ "hạ lưu". Dưới nhãn quan của tác giả Chứng Đạo Ca, vấn đề Chủng Tánh Căn Cơ, người Thích tử phải lưu tâm bồi dưỡng nó.

---o0o---



THI CA 13

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO VẤN ĐỀ THỊ PHI

---o0o---

Phiên âm:

Tùng tha báng, nhậm tha phi

Bả hỏa thiêu thiên đồ tự bì

Ngã văn kháp tự ẩm cam lộ

Tiêu dung đốn nhập bất tư nghì

Dịch nghĩa:

* Tốt và xấu nhà nhà đều có

Thị với phi, chốn chốn "hưởng" đồng nhau

Mặc tâng khen, mặc phỉ báng, đừng nao

Họ tự bỏng, bằng ngọn lửa đốt trời trong tay họ

* Lời phỉ báng, nghe như ru, như gió thoảng

Ngọt như cam lồ, mát tợ xuân phong

Tìm đâu ra! Bực bội với u sầu?

Nó tan biến trong cảnh giới "bất tư nghì" giải thoát.

TRỰC CHỈ

Thị phi, nhơn ngã, hỉ nộ, ái ố… suốt ngày ở đâu cũng có, nhà nhà đều có. Hay dở, khen chê, tốt xấu, xứ nào cũng có. Tất cả những cái đó, muốn cho nó trở thành không có, thì: Một, không nghe. Hai, nghe mà không để dạ, không tư duy về nó, thì tự nó "tiêu dung".

"Tiêu dung đốn nhập bất tư nghì"

Đó là việc có thật. Mọi người có thể tự thí nghiệm bằng cuộc sống của mình, trong những trường hợp mình "lỡ" bị thị phi ập đến.

Người tu hành rất cần "chánh niệm" để kịp thời đối phó với nghịch cảnh, nếu có. Trường hợp bị phỉ báng, thị phi, ta nhớ: Họ sẽ tự bỏng bởi ngọn lửa đốt trời trong tay họ. Miệng họ tự ô uế trước, vì máu họ ngậm để phun người. Quán chiếu và tư duy như vậy, người tu sẽ nhẹ nhõm ngay, cơn bực tức sẽ hạ tức thời, nếu chánh niệm đến kịp lúc.

Người chân tu nghe thị phi như gió thoảng, như ru hời, ngọt như cam lồ, mát như xuân phong, tỉ tê như nhạc thính phòng, nỉ non như tiếng sáo Trương Lương… là chuyện có thật. Đó là ý thú của câu và của người.

"Kiến sắc phi can sắc

Văn thanh bất thị thanh

Sắc thanh vô quái ngại

… Thị đáo pháp vương thành"

"Ngã văn pháp tự ẩm cam lộ"

"Tiêu dung đốn nhập bất tư nghì"

Là chuyện có thật của người chân tu, biết tu, thường giữ được… "Chánh niệm" và chánh định trong đời sống tu hành.

Tu mà không đem lại kết quả, không hóa giải được vô minh phiền não, không có chút an lạc nào trong đời sống hiện tại là "Tu sai" cần phải sửa.

Hy vọng kết quả ở đời sau, sau khi chết càng sai nghiêm trọng.

---o0o---


THI CA 14

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO VỀ SỰ HỦY BÁNG

---o0o---

Phiên âm:

Quán ác ngôn thị công đức

Thử tắc thành ngô thiện tri thức

Bất nhân sáng báng khởi oan thân

Hà biểu vô sanh từ nhẫn lực

Dịch nghĩa:

* Lời sỉ nhục ta nghe ra răn dạy

Người dạy ta là thiện tri thức của ta

Nhờ ân sư mà đạo lực kiên cường

Lòng thánh thiện, ta thọ dụng, vô vàn an lạc

* Câu hủy báng, ta không quan tâm để dạ

Kết oan cừu nào có lợi chi

Để chứng minh sức TỪ, NHẪN vô sanh (1)

Hãy mở rộng cửa lòng bao la như biển.

TRỰC CHỈ

Người nói được cái xấu, dở của ta, người đó đáng là người THIỆN HỮU TRI THỨC. Lời hủy báng, sỉ nhục nếu ta có đạo lực, chánh niệm vững vàng thì sự kiện đó làm cho ta tăng thêm nghị lực trên bước đường hành đạo. Cho nên:

"Quán ác ngôn, thị cộng đức"

Đó là điều có thật đối với người chân tu thực học, nghe sỉ nhục, hủy báng mà giận mà thù thì làm sao tỏ rõ được sức TỪ BI, NHẪN NHỤC và VÔ SANH của một Thích tử. Phải biểu lộ và chứng tỏ sức: TỪ, NHẪN, VÔ SANH của đạo Phật qua những "ác ngôn" những "sáng báng" mà không được khởi" oan thân". Cái thấy của người chứng đạo, qua niệm vấn đề là như thế.

"Nhiêu, nhiêu, nhiêu thiên tai vạn họa nhất tề tiêu"

"Nhẫn, nhẫn, nhẫn oan gia trái chủ tùng thử tận"

"Mặc, mặc, mặc vô hạn thần tiên tùng thử đắc…"

---o0o---


THI CA 15

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO ĐỊNH TUỆ LÀ NHÂN TỐ QUYẾT  ĐỊNH QUẢ BỔ ĐỀ NIẾT BÀN

---o0o---

Phiên âm:

Tông diệc thông, thuyết diệc thông

Định tuệ viên minh bất trệ không

Phi đản ngã kim độc đạt liễu

Hằng sa chư Phật thể giai đồng

Dịch nghĩa:

Chánh giáo giỏi, thuyết giáo hẳn là sâu sắc

Định tuệ tròn, sẽ không vướng CÓ và KHÔNG

Không riêng tôi, có được sự kiện nầy

Hằng sa Phật, ĐỔNG THỂ không ngoài chân lý ấy

TRỰC CHỈ

Thiền định, trí tuệ và sự thông minh là ba môn rất cần phải có của một tu sĩ Phật giáo.

Chỉ có thông minh thôi, sẽ trở thành "Thế trí biện thông" tài tình cho lắm thì cũng chỉ là người giỏi phục vụ cho ăn, mặc, ở, ngủ… suốt đời, mà khó có một ngày bằng lòng trọn vẹn. Người ta phải "chịu đựng" và "chịu đựng"…

THIỀN ĐỊNH đối với tu sĩ Thích tử không thể thiếu. Thiền định quan trọng với tu sĩ ví như chất muối quan trọng với những "đầu bếp" nên nếm các món thực đơn đang nấu của mình. Thức ăn không thể không có muối nhưng muối tự nó không thành thức ăn ngon được. Vì vậy, tu thiền định phải là thứ định có tư duy, phát sanh trí tuệ. Nhận thức chân lý trong lúc định cũng như lúc xuất định, ấy là định đúng. Trái lại định để đi vào vô tri vô giác như tượng gỗ đá là định không có tuệ, đó là định sai lầm, vô ích. Khác hơn định vô tri vô giác, người thiền định bằng cách tưởng tượng. Vận dụng trí tưởng tượng: Rằng ta đến cõi trời, ta vào động tiên, ta gặp đức Phật v.v… Đấy cũng là một thứ định không tuệ. Thứ định nầy sai lạc sẽ không đem lại kết quả mà còn nguy hiểm cho hệ thần kinh. Thứ định nầy định càng sâu thì "lậm" càng nặng, có thể dẫn đến bệnh "tâm thần" loạn trí mà người bị "lậm" tưởng mình đang sinh hoạt giao du với thần thánh, Phật trời…

Định dẫn đến vô tưởng, vô tri giác sẽ rơi vào bệnh chấp KHÔNG, chối bỏ vạn vật hiện hữu.

Định để mà tưởng tượng, xuất hồn đi đây đi đó, gặp thánh, gặp Phật… sẽ rơi vào bệnh chấp CÓ, cảnh giới do hoang tưởng mà tự thấy.

Thiền định của đạo Phật, ĐỊNH là NHÂN, TUỆ là QUẢ. Tuệ phải là "tuệ" do chánh định, chánh niệm, chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh tinh tấn, chánh mệnh. Đối tượng tư duy quán chiếu là chân lý cuộc đời.

Do vậy, với cái thấy của người chứng đạo:

"Định tuệ viên minh bất trệ không…"

---o0o---


THI CA 16

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO VỀ CHÁNH PHÁP CỦA NHƯ LAI

---o0o---

Phiên âm:

Sư tử hống, vô úy thuyết

Bách thú văn chi giai não liệt

Hương tượng bôn ba thất khước uy

Thiên long tịch thính sanh hân duyệt

Dịch nghĩa:

Tiếng PHÁP chánh, tựa tiếng gầm sư tử

Bách thú nghe, như vỡ óc xé tim gan

Lời Như Lai, lời vô úy trong trời người

Hương tượng khiếp, còn nói chi nai và chó chóc

TRỰC CHỈ

Pháp âm của Phật thuyết thường được ví tiếng gầm của sư tử (sư tử hống) hoặc "hải triều" hoặc "chuyển pháp luân". Những từ đó dùng chỉ chân lý có một sức "uy hùng" như tiếng gầm của chúa sơn lâm, sức "áp đảo" như tiếng "gào" của sóng biển, sức "đè bẹp" như sức cán sỏi đá của "hủ lô".

Chánh pháp phá tà thuyết dễ như ánh sáng chiếu bóng tối, phá mê tín dị đoan huyễn hoặc siêu hình dễ như "hủ lô" cán sỏi…

Chỉ có người trí, hàng chư thiên (tức hạng người có gieo trồng thiện nhân, có phước đức) nghe, sanh tâm hoan hỉ và hưởng được an lạc, ngay trong cuộc sống.

---o0o---


THI CA 17

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO SANH TỬ BẤT TƯƠNG CAN

---o0o---

Phiên âm:

Du giang hải, thiệp sơn xuyên

Tầm sư phỏng đạo vị tham thiền

Tự tùng nhận đắc tào khê lộ

Liễu tri sanh tử bất tương can

Dịch nghĩa:

Tôi đi khắp núi, sông, rừng, duyên hải

Để tầm sư, hỏi đạo, học tham thiền

Cho đến ngày, tôi tiếp nhận chỉ chú TÀO KHÊ

Sự sanh tử, chẳng đáng gì để tâm dính dáng


TRỰC CHỈ

Là con người không ai dám xem nhẹ vấn đề sinh tử. Ai cũng lo âu, sợ hãi canh cánh suốt cuộc đời.

Với tuệ giác vô thượng của đức Phật mà người đạo sĩ tu học, có quán chiếu tư duy, nhận thức được chân lý thì sự sinh tử không phải là việc đáng sợ hãi, đáng để tâm ôm ấp, để rồi khổ đau vì nó, mà cuối cùng cũng không tránh khỏi. Thế là "lỗ lã", "thiệt thòi". Tìm lý do? Chỉ vì "chấp", vì bệnh chấp ngã, chắp pháp của con người. Đáng lý con người được hưởng sự tự tại, giải thoát ngay trong cuộc sống, thế mà mất hết!


Từ khi tác giả Chứng Đạo Ca tiếp nhận chỉ thú TÀO KHÊ:

"Ung dung không làm lành

"Vội vàng không tạo ác

"Bằng bặc chẳng thấy nghe

"Thênh thênh tâm không "dính"

Do vậy, vấn đề sinh tử chẳng dính vào được. Há chẳng phải:

"Sinh tử bất tương can?"

---o0o---


THI CA 18

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO VỀ ĐẠI THỪA THIỀN

---o0o---

Phiên âm:

Hành diệc thiền, tọa diệc thiền

Ngữ mặc động tĩnh thể an nhiên

Túng ngộ phong đao thường thản thản

Giả nhiêu độc dược dã nhàn nhàn

Dịch nghĩa:

Tu THIỀN tọa, không chỉ ngồi mới "tọa"

Thiền cả đi, khi đứng lúc cần nằm

Dẫu gươm đao dọa dẫm vẫn bình tâm

Phải độc dược, cố giữ lòng thanh thản

TRỰC CHỈ

Xét cho kỹ mọi sinh hoạt ở đời, người ta sẽ thấy THIỀN là một môn luyện tập thuộc phạm trù nội tâm, một phương pháp điều Tâm hiệu quả. Do vậy, người ta ứng dụng hầu hết mọi lãnh vực, mọi ngành nghề. Thiếu chất THIỀN khó mà phát triển tài năng kể cả hai mặt: sinh lý và tâm lý. Muốn đánh trúng chỗ nhược của đối phương, người võ sĩ phải thiền. Nấu ăn thật ngon, người đầu bếp phải có thiền. Phát minh một khoa học, một vật lý, một dược liệu mới, nhà bác học phải có thiền… Đó là thế gian THIỀN.

Ở lãnh vực "tôn giáo", còn có ngoại đạo thiền, tiểu thừa thiền.

Hành diệc thiền, tọa diệc thiền,

"Ngữ mặc động tĩnh thể an nhiên…"

Đấy thuộc ĐẠI THỪA THIỀN. Tại sao Đại thừa thiền có một phong thái xem thường những đe dọa, chết chóc? Chừng nào THIỀN GIẢ giải đáp được câu hỏi đó thì mới hiểu được rằng ĐI, ĐỨNG, NGỔI, NẰM, đều không rời THIỀN của Đại thừa THIỀN.

Than ôi!

"Duy chứng nãi tri nan khả trắc

"Kính lý chiếu hình khán bất nan

"Thủy trung tróc nguyệt tranh niêm đắc".

---o0o---


THI CA 19

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO VỀ SINH TỬ

---o0o---

Phiên âm:

Kỷ hồi tử, kỷ hồi sinh

Sinh tử du du vô định chi!

Ngã sư đắc kiến nhiên đăng Phật

Đa kiếp tằng vi nhẫn nhục tiên

Dịch nghĩa:

Việc sinh tử kể sao cùng số…

Tử rồi sinh, sinh tử lững lờ trôi

Bổn sư ta vô lượng kiếp phát tâm lành

Làm tiên nhẫn nhục, tu hành từ thời

NHIÊN ĐĂNG cổ Phật.

TRỰC CHỈ

Ham sinh sợ tử là việc thường tình. Bởi vì người đời quan niệm rằng "đời người có một lần". Một lần sinh ra. Một lần thi đỗ. Một lần kết hôn và đáng sợ nhất, một lần chết. Cuối cùng chết là hết!

Dưới nhãn quan của người chứng đạo: vạn pháp không có cái gì mất hẳn. Vạn pháp là hiện tượng vô thường nhưng chúng duyên sinh từ bản thể chân thường. Vì vậy, việc sinh tử không thể luận kiếp số, không có sự chấm dứt dòng sinh tử. Dòng sinh tử tử sinh cứ trôi mãi không có bến bờ dừng trụ. Nó "hằng" mà "chuyển". "Chuyển" trong cái "hằng".

"… Tử rồi sinh, sinh tử lững lờ trôi"

Không phải chỉ có con người mới tử sinh vô cùng vô tận về kiếp số. Qua cái thấy của người chứng đạo, Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni của ta cũng vậy, chư Phật trong mười phương ba đời cũng cùng thọ dụng một chân lý.

"… Việc sinh tử, kể sao cho cùng số…"


---o0o---


THI CA 20

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO VỀ THÚ VUI CỦA THIỀN GIẢ

---o0o---

Phiên âm:

Nhập thâm sơn trụ lan nhã

Sầm ngâm u thúy trường tòng hạ

Ưu du tĩnh tọa dã tăng gia

Khuých tịch an cư thật tiêu sái!

Dịch nghĩa:

Vào rừng thẳm, trụ am thanh tĩnh mịch

Dưới cội tùng, bên gộp đá bóng râm che

Làm Tăng quê, vui sâu trong tĩnh tọa, trong êm đềm

Cảnh lặng lẽ, an lành sao nói hết… !

TRỰC CHỈ

Là con người, ai cũng như ai. Ngày ngày lo toan sinh kế, phục vụ bản thân gia đình, thừa ra đóng góp phần cho xã hội. Ngoài những ngày giờ làm việc mệt nhọc, mỗi người dành cho mình một cách "giải trí", một "thú vui". Thú vui xem phim, thú vui đọc sách, thú vui đánh cờ, thú vui câu cá, thú vui ca nhạc…

Dưới mắt người chứng đạo, người đạo sĩ cũng có thú vui, một thú vui khác với tất cả thú vui của người thường. Thú vui của đạo sĩ, người thường nghe có thể không thấy có gì vui. Vì người ta không thưởng thức nổi cái hương vị giải thoát thậm trầm, sâu kín, mầu nhiệm của tâm hồn người đạo sĩ.

Nói một cách khẳng định rằng, người đạo sĩ có thực tu, tu đúng chánh pháp, người đạo sĩ đó thưởng thức trọn vẹn cái thú vui "vô vi" mà người thường không có cơ hội được thưởng thức. Thú vui VÔ VI muốn thưởng thức nó, còn có cách là phải theo dấu chân của người trước đã đi qua.

"Vào rừng thẳm, trụ am thanh tĩnh mịch

Dưới cội tùng, bên gộp đá, bóng râm che

"Làm Tăng quê, vui sâu trong tĩnh tọa, trong êm đềm

"Cảnh lặng lẽ, an lành sao nói hết… !"

---o0o---


THI CA 21

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO KHÔNG NÊN TRỤ PHÁP TU PHƯƠNG TIỆN

---o0o---

Phiên âm:

Giác tức liễu, bất thi công

Nhất thiết hữu vi pháp bất đồng

Trụ tướng bố thí sanh thiên phước

Do như ngưỡng tiễn xạ hư không

Thế lực tận, tiễn hoàn trụy

Chiêu đắc lai sanh bất như ý

Tranh tự vô vi thật tướng môn

Nhất siêu trực nhập Như Lai địa.

Dịch nghĩa:

* Giác là hết, chẳng cần tu với chứng!

Pháp hữu vi nhiều lắm kể sao cùng

Bố thí ra, lòng chấp, phước sanh thiên

Lúc phước hết, sinh lại cuộc đời không như ý

* Như tên bắn, xé hư không bay vút

Sức mỏn rồi, tên rớt biết về đâu!

Sao bằng ta, thẳng tiến THẬT TƯỚNG MÔN

Nhảy một nhảy, đến ngay vùng đất Phật

TRỰC CHỈ

Muốn đi con đường Phật, phải chú ý những điều cần biết ban đầu:

Về pháp môn, đại để có phương tiện và cứu cánh…

Về chủng tánh, đại để có tiểu thừa và đại thừa…

Về giáo lý, đại để có tiệm, đốn, viên…

Về căn cơ, đại để có lợi, độn…

Có hiểu những điều cốt lõi đó, trong quá trình nghiên cứu, học Phật mới không sửng sốt, ngạc nhiên, kinh hãi, thậm chí phản đối và nguyền rủa, khi đọc:

"Giác là hết, chẳng cần tu với chứng".

Đối với tư tưởng Đại thừa của người chủng tánh Đại thừa, đó là sự thật, không hề cường điệu, đại ngôn, càng không hề dụng ý phủ định, chê bai, bôi bác sự tu hành của người khác không cùng căn cơ, chủng tánh, trình độ và pháp tu giống mình.

Người Đại thừa nhận thức rõ, pháp hữu vi "thiên sai vạn biệt", pháp tu thì "vô lượng pháp môn", chạy theo nó mình sẽ làm gì đây? Làm cái nào cho mau hiệu quả? Tu món gì để được "phước nhiều"? Hành kiểu chi để mau thành Phật? v.v… Vô số vấn đề, bao nhiêu câu hỏi được đặt ra, chắc chắn chẳng ai biết chắc phải làm gì để được thành công sớm nhất và to lớn đến cỡ nào!

Riêng về pháp môn tu THIỀN của THIỀN TÔNG cũng còn không biết cơ man nào rắc rối. Nếu không có duyên tu học VÔ VI THẬT TƯỚNG MÔN thì đa số, người ta chỉ dạy nhau và tu với nhau những pháp môn THIỀN LÁ SẢ mà thôi! Với người Đại thừa "Nhảy một nhảy đến ngay vùng đất Phật".

Đó là chuyện có thật. Nhưng có điều chua chát là lời thật không phải ai cũng bằng lòng. Tuy nhiên, không vì vậy mà người chứng đạo không vì lẽ thật, nói ra lời thật để cho ai đó "đạt giả đồng du…" chứng nhập quả bồ đề chân thật.

---o0o---


THI CA 22

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO NHÌN BAO QUÁT NẮM TRỌNG TÂM

---o0o---

Phiên âm:

Đản đắc bổn, mạc sầu mạt

Như tịnh lưu ly hàm bảo nguyệt

Ký năng giải thử như ý châu

Tự lợi, lợi tha chung bất kiệt

Dịch nghĩa:

* Cần ôm gốc, quan tâm chi cành ngọn

Gốc vững rồi, cành ngọn sẽ sum suê

Như lưu ly, thu hết ánh trăng vàng

Sáng vằng vặc, sáng mơ màng, châu lưu ly thu trọn vẹn

* Cũng như thế, tâm ta là châu NHƯ Ý

NHƯ Ý châu, giá trị lớn vô cùng

Tỉnh thức rồi, với THƯỜNG TRÚ CHÂN TÂM

Dùng tự lợi, dẫu lợi tha đời không bao giờ hết.

TRỰC CHỈ

Nhìn bao quát nắm lấy trọng tâm là cách nhìn của người khôn ngoan trong cuộc sống.

Nhà quân sự, cất cánh chiếc máy bay thám thính, bay lượn một vùng trời hàng trăm "cây số" để nhìn bao quát và tìm nắm lấy một mục tiêu, một "trong tâm" của đối phương trong một vài điểm.

Tiều phu vào rừng. Ngư phủ ra khơi. Người nội trợ đi chợ. Cô bán hàng rong… đều vận dụng cách "nhìn bao quát, nắm lấy trọng tâm" trong nghề nghiệp của mình. Đến như những bậc tiền bối dòng dõi tiên rồng cũng dạy cho con cháu cách "nhìn bao quát nắm lấy trọng tâm" để chọn cho mình một ý trung nhân trong lứa tuổi "xuân xanh xấp xỉ" búi tóc cài trâm rằng:

"Trai khôn tìm vợ chợ đông

Gái khôn tìm chồng giũa chốn ba quân".

Người đạo sĩ cũng có cái nhìn "bao quát" trong đường học đạo và hành đạo. Người ta thường gặp nó trong một cái từ đẹp đẽ mới nghe qua tưởng như hữu lý:

"Bồ-tát đa hạnh"

Thực vậy, "đa hạnh" không có gì phải chê trách và chối bỏ. Nhưng "đa hạnh" chỉ là cách "nhìn bao quát" mà người thông minh, cần phải biết "trọng tâm" để nắm lấy. Đa hạnh chỉ là lá, ngọn, cành… Lá, cành, ngọn, đọt có thể tiêu ma tàn tụi dễ dàng nếu gốc sùng, hà, mục ruỗng.

Trọng tâm của đạo sĩ, qua cái thấy của người chứng đạo là TÂM. Tâm ở đây được ví "tịnh lưu ly". Tịnh lưu ly thu hết ánh trăng vàng. "Chân tâm thường trú", "Như Lai Viên Giác Diệu Tâm" mà phát hiện, mà tỉnh thức, mà tỏ ngộ, mà thể nhập thì diệu dụng sẽ vô cùng vô cực. Dùng cho việc lợi mình, dùng cho việc lợi chúng sinh từ đời nầy cho đến vĩnh viễn vô lượng đời sau công đức không bao giờ cạn kiệt.


---o0o---


THI CA 23

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO VỮNG CHÁNH NIỆM TRONG MỌI THỜI

---o0o---

Phiên âm:

Giang nguyệt chiếu, tòng phong xuy

Vĩnh dạ thanh tiêu hà sở vi?

Phật tánh giới châu tâm địa ấn

Vụ lộ vâ hà thể thượng y

Dịch nghĩa:

* Trăng vằng vặc, lung linh vờn đáy nước

Gió ngọn tùng, nghe như cật vấn lương tri

Cảnh đêm thanh, trăng sáng: Đã làm gì?

Rằng, Phật tánh, giới châu tôi in sâu vào tâm địa.

* Tôi lấy cả ráng, mây, làm màu áo

Lấy mù mai, sương sớm để làm màn

Vui trăng sông, tùng núi, gió vi vu

Ôm Phật tánh, giới châu làm bạn đường chung chăn gối!

TRỰC CHỈ

Cái thấy của người chứng đạo đối với việc "tu hành" nhẹ nhàng, cởi mở, tự tại mà hiệu quả rất cao, người chứng đạo họ có giải thoát thật sự, họ có giác ngộ chân lý thật sự, vì vậy không có gì ràng buộc được thân tâm con người chứng đạo. Dưới mắt của người chứng đạo, vạn pháp đồng nhất thể. Tùy duyên biến hiện mà dáng vẻ hình hài có sai khác đó thôi. Tất cả đều cùng chung một tự tánh thanh tịnh bản nhiên của tự nó. Từ nhận thức chân lý đó, cho nên vấn đề gọi là TU HÀNH chẳng có gì cực khồ khó khăn.

Van xin, cầu nguyện. Không cần

Lạy ngũ bách danh, tam thiên Phật. Không cần.

Tụng kinh, tay chuông, tay mỏ, ngày sáu thời. Không cần.

Tay lần chuỗi, miệng niệm danh hiệu Phật suốt ngày. Không cần.

Vậy người đạo sĩ, cần gì?

- Cần vững CHÁNH NIỆM. Có chánh niệm là có tất cả. Có chánh niệm người đạo sĩ sẽ không rời Phật tánh. Luôn luôn tỉnh thức sống bằng Phật tánh, đương nhiên có "giới châu", có "định châu", có "tuệ châu". Giới, định, tuệ mà in sâu tâm địa thì còn cái gì ràng buộc được, lý do nào làm cho hành giả "bận lòng"!

Như vậy, người đạo sĩ:

"Tôi lấy cả ráng, mây, làm màu áo

Lấy mù mai, sương sớm để làm màn

Vui trăng sông, tùng núi, gió vi vu

Ôm Phật tánh, giới châu làm bạn đường chung chăn gối!"

Đó là việc có thật. Có thật, tuy nhiên:

"Duy chứng nãi tri, nan khả trắc…"

---o0o---

 


 

 

THI CA 24

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO SỰ LÝ TƯƠNG HỒ

---o0o---

Phiên âm:

Hàng long bát, giải hổ tích

Lưỡng cô kim hoàn minh lịch lịch

Bất thị tiêu hình hư sự trì

Như Lai bảo trượng thân tung tích

Dịch nghĩa:

* Gậy đuổi cọp, đến nay còn chứng tích

Bát thu rồng, của Lục Tổ hãy còn lưu

Thấy vật xưa, như gặp lại người xưa

Nhìn kỷ vật, để nhủ lòng thêm tinh tấn

* Cầm tích trượng, tưởng như nắm trong tay chân lý

Tứ diệu đề với thập nhị duyên sinh…

Trượng của Như Lai là biểu tượng của "bần tăng"

Chân đạo sĩ, chớ nên nghĩ: Đó là HƯ SỰ!

TRỰC CHỈ

Người học Phật, phải học, hiểu những vấn đề then chốt của nền giáo lý Phật, trước khi vào nhà Phật học đồ sộ. Đó là vấn đề:

Sự - Lý

Phương tiện – Cứu cánh

Bất liễu nghĩa – Liễu nghĩa.

Tục đế – Chơn đế


Hiểu được ý nghĩa và công dụng của những cặp phạm trù đó, người đạo sĩ thấy biết rộng sâu vào vấn đề:

- Lý pháp giới

- Sự pháp giới

- Lý sự pháp giới

- Sự sự pháp giới

- Lý vô ngại

- Sự vô ngại

- Lý sự vô ngại

- Sự sự vô ngại

Hiểu tõ tánh chất "vô ngại" qua bốn cách nhìn "pháp giới", người đạo sĩ chợt nhận ra chân lý "Pháp giới nhất chân". Sự là "sự" của "lý". Lý là "lý của "sự". SỰ LÝ VIÊN DUNG. Bấy giờ nhìn thấy gậy đuổi cọp, bát thu rồng, bình bát, tích trượng như nhìn thấy Phật, Pháp và Tăng. Thấy được chân lý: "Một là tất cả". "Tất cả là một". Thế cho nên với người chứng đạo những chứng tích "hữu vi", "sự tướng" đó không ngoài "bản thể nhất chân" thì sao được gọi là HƯ SỰ TRÌ?

Tuy nhiên, với người chưa tỏ ngộ châ lý, ôm giữ bình bát tích trượng, ba y, chánh gốc của Phật tổ Như Lai, để mà "lễ bái" mà "cầu nguyện" mà "van xin" mà "hy vọng", mà trông nhờ sự "phù hộ" sự "cứu rỗi" của Phật thì rõ là HƯ SỰ TRÌ. Vì sự chỉ là sự "hữu vi pháp" thì của ai cũng đều như huyễn, như hóa, như sương mai, như điện nhoáng mà thôi. Bo bo ôm giữ "sự tướng" là dẫm chân một chỗ. Mà phải hiểu:

Sự để đạt đến Lý

Phương tiện để đạt đến cứu cánh

Bất liễu nghĩa để đưa lên liễu nghĩa

Tục đế để nhận thức tư duy chân đế".

---o0o---


THI CA 25

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO VỌNG, CHÂN ĐỀU VỌNG

---o0o---

Phiên âm:

Bất cầu chân, bất đoạn vọng

Liễu tri nhị pháp không vô tướng

Vô tướng vô không vô bất không

Tức thị Như Lai chân thực tướng

Dịch nghĩa:

* Chân đạo sĩ chẳng cầu chân bỏ vọng

Vốn biết rằng: Chân, vọng không có gì!

Bảo rằng "KHÔNG", nhưng không được hiểu "NGOAN KHÔNG"

Rằng là "CÓ", mà không nói là "THỰC CÓ"

* Nhận thức rõ, "Như Lai chân thực tướng"

Sắc là không, không là sắc, bất tương ly

Chân lý duyên sanh, một đạo lý nhiệm mầu

Nhìn "đương thể": SẮC là KHÔNG, KHÔNG là SẮC

TRỰC CHỈ

Giáo lý liễu nghĩa thượng thừa trong đạo Phật, vần đề CHÂN, VỌNG không là vấn đề đáng được bàn cãi đúng sai chân vọng nữa.

"Tánh chân thực của pháp hữu vi là KHÔNG

Vì duyên sinh

Ví như huyễn

Bản chất của pháp vô vi, không sinh không diệt

Vì không có thật

Ví như hoa đốm trong hư không"

Chỉ cái vọng, cốt hiển bày CHÂN. Không vọng tự nó CHÂN. Không có CHÂN nào ngoài VỌNG. Vọng và Chân đều không tự tướng. Không tự tướng đồng nghĩa với "không có gì". Gọi là CÓ chỉ là sự hội tụ duyên sinh còn hòa hợp. Gọi là KHÔNG chỉ là sự phân tán của duyên sinh tan rã.

Người học Phật khi nói CÓ phải ý thức, mình đang nói CÓ cái gì. Lúc nói KHÔNG cũng phải ý thực, mình đang nói KHÔNG cái gì!

SẮC KHÔNG, KHÔNG SẮC là vấn đề của người học đạo, hành đạo và chứng đạo mới thấy rõ:

"… Đạt giả đồng du Niết-bàn lộ…"

"… Duy chứng nãi tri nan khả trắc…"

Đó không phải là vấn đề nên "thảo luận" trong những buổi "tửu hậu trà dư". Càng không được nói để chứng minh rằng đó là sai hay đúng. Nếu cả đời mà ta chưa gặp "đạt giả" để "đồng du" thì chỉ còn một cách: "độc hành độc bộ" mà thôi! Rồi thỉnh thoảng chờ nghe tiếng vọng trong không gian thủ thỉ:

"Vui thì vui gượng kẻo là

Ai tri âm đó, mặn mà với ai…"

---o0o---


THI CA 26

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO   … NHẤT THIẾT DUY TÂM…

---o0o---  

Phiên âm:

Tâm cảnh minh, giám vô ngại

Hoát nhiên huýnh triệt châu sa giới

Vạn tượng sum la ảnh hiện trung

Nhất lỏa viên quang phi nội ngoại

Dịch nghĩa:

Gương tâm sáng, rõ soi không ngăn ngại

Thoắt ngộ rồi, thu hết thế giới hằng sa

Vạn tượng sum la, là ảnh hiện của tâm này

Có TUỆ GIÁC, "trong" "ngoài" không ranh giới

TRỰC CHỈ

Trong giáo lý Phật, đề cập TÂM là đi vào lãnh vực "chuyên", vào chiều sâu thăm thẳm của tư duy và quán chiếu. Nói cách khác, người học Phật muốn nhận thức về TÂM, thưởng thức được hương vị giải thoát của TÂM, công dụng tuyệt vời thánh thiện của TÂM, người đạo sĩ phải thực hiện THIỀN, phải vận dụng CHÁNH QUÁN.

Bởi vì TÂM ở trong đạo Phật nói có nhiều tên gọi. Mỗi tên gọi, một công dụng, một giá trị lợi hay bất lợi, "bạn" hay "thù", chỉ người thực học, thực tu, mới hiểu hết, hiểu kỹ từng công dụng của các thứ TÂM.

Nhục đoàn tâm

Vọng tâm

Chân tâm

Thường trú chân tâm

Như Lai Viên Giác diệu tâm

Duyên lự tâm

Bát thức tâm

Tích tụ tinh yếu tâm

Tâm có nhiều tên gọi như vậy, cho nên nghiên cứu đạo Phật sơ sài, hời họt mà bàn luận về TÂM thì khó mà quán triệt vấn đề.

TÂM CẢNH MINH, chỉ cho cái tâm được loại bỏ "vọng tâm", loại bỏ "duyên lự tâm", nhưng thứ tâm nghĩ ngợi lăng xăng, tạp nhạp, thứ tâm gây ra một nguyên nhân và hậu quả khổ đau cho con người.

TÂM CẢNH MINH là NHƯ LAI VIÊN GIÁC DIỆU TÂM là THƯỜNG TRÚ CHÂN TÂM của con người vốn có. Theo giáo lý đạo Phật, đó là "bản thể" của vũ trụ vạn hữu. Hiện tượng vạn hữu là pháp "duyên sinh" từ tâm thể đó mà ra:

"Nhược nhơn dục liễu tri

Tam thế nhất thiết Phật

Ưng quán pháp giới tánh

NHẤT THIẾT DUY TÂM TẠO"

"Duy tâm tạo" là "tâm thể" bao hàm thu tóm hết vạn tượng sum la, không còn vật nào "ở trong", cái gì "ở ngoài" nữa. Cũng như sóng mòi, bọt bong bóng, không có cái gọi là "trong", là "ngoài", vì là cùng loại duyên sinh trên mặt biển bao la vô tận của nước đại dương.

---o0o---


THI CA 27

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO CẢNH GIÁC VỀ Ý NIỆM CHẤP CỦA  CHÍNH MÌNH

---o0o---


Phiên âm:

Hoát đạt không bát nhân quả

Mảng mảng đãng đãng chiêu ương họa

Khí hữu trước vô bệnh diệc nhiên

Hoàn như tịch nhi đầu hỏa

Dịch nghĩa:

* Kẻ thiển trí, chủ trương: RỖNG TUẾCH

Cõi đời KHÔNG, NHÂN, QUẢ cũng KHÔNG

Khù khờ thay! Một hiểu biết đáng thương!

Rước tai họa cho bản thân mà không hay biết

* Kẻ chấp CÓ bị khổ đau vì CÓ

Người chấp KHÔNG sẽ đau khổ bởi KHÔNG

Tránh lửa thiêu, đâm đầu chạy nhảy sông

Khỏi chết nóng, chết lạnh cũng là một cách chết!

TRỰC CHỈ

Chữ CHẤP ở trong đạo Phật có ý nghĩa rất quan trọng. Chấp đồng nghĩa như chữ "cho là". Sự vật tôi "cho là" CÓ hoặc tôi "cho" sự vật "là" KHÔNG. Cho là CÓ: CHẤP CÓ. Cho là KHÔNG: CHẤP KHÔNG. Cho là KHÔNG NHÂN QUẢ: CHẤP KHÔNG NHÂN, KHÔNG QUẢ.

CHẤP thế gian là có, chấp thế gian là không, đồng nghĩa với "chấp thường", "chấp đoạn", không hợp với chánh pháp.

Cho vạn pháp thực có, con người sẽ bị sa lầy, vì đam mê vạn pháp. Vì vạn pháp mà tạo nghiệp mà chiêu báo. Cho vạn pháp là không, con người mất hết lý tưởng để sống. Và nếu sống cũng dễ mất hết lương tâm, lương tri, không biết vấn đề thiện ác là gì. Cho rằng không có nhân quả, cũng là hạng người rất đáng sợ, vì người ta không quan tâm, không lượng định việc làm và hậu quả của việc làm, nếu việc làm đó là "bất thiện nghiệp".

Không CHẤP CÓ, vì chán ý niệm có, vì ý niệm CHẤP CÓ gây ra nhiều nguyên nhân đau khổ. Bấy giờ xoay lại nảy sanh ý niệm CHẤP KHÔNG. CHẤP KHÔNG vẫn là một ý niệm chấp sai lầm chân lý. Dính líu vào ý niệm chấp có đã không đem lại an lạc hạnh phúc được. Dính líu vào ý niệm chấp không, làm sao có được sự an vui. Vả lại ở trên cõi đời làm sao phủ định vạn pháp, làm sao trốn chạy vạn pháp, khiến cho vạn pháp trở thành KHÔNG, cho được?

Mà người học đạo phải hướng về "Thật tướng", phải chứng cho được "Thật tướng" thì mới khỏi vướng hai bên.

---o0o---


THI CA 28

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO VẤN ĐỀ XẢ BỎ VÀ TÌM LẤY

---o0o---

Phiên âm:

Xả vọng tâm, thủ chân lý

Thủ xả chi tâm thành xảo ngụy

Học nhân bất liễu dụng tu hành

Chân thành nhận tặc tương vi tử

Dịch nghĩa:

Bỏ tâm vọng. Vọng tìm không có

Chân lý tìm? Chân lý biết ở đâu?

Sai lầm ngay trong ý niệm BỎ, TÌM

Lơi cảnh giác, tưởng con mà là giặc!

TRỰC CHỈ

Hễ có ý niệm LẤY, BỎ thì cũng có các ý niệm tốt, xấu, thương, ghét, thân, sơ, sang, hèn, phải, quấy, ta, người… Đó là những ý niệm phát xuất từ vô minh vọng động, khiến cho CHÂN TÂM thanh tịnh vốn có của con người bị ẨN mất. Ví như sóng mòi, bọt bèo của nước biển không thể hiện được tánh phẳng lặng như tờ của biển.
Theo giáo lý Bát Nhã Ba La Mật, pháp sai lầm trái chân lý trừ bỏ đã đành mà pháp gọi là chánh là đúng, cũng phải bỏ nốt.

Một bàn tay cầm nắm phải bùn đất, cần buông bỏ đã đành, bàn tay cầm nắm kim cương, vàng ròng thì bàn tay đó cũng bị "nắm cứng" vì mớ vàng ròng và kim cương ấy. Bàn tay sẽ không dùng được vào một việc gì khác, trong khi công dụng của bàn tay có thể phát huy diệu dụng, lợi ích vô cùng.

Sai lầm của THỦ, XẢ nó không đóng khung trong "thủ xả" mà nó liên can lôi cuốn theo nhiều thứ khác. Vì vậy, tác giả nói:

"Thủ xả chi tâm thành xảo ngụy…"

---o0o---


THI CA 29

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO CHẾ TÂM NHỨT XỨ…

---o0o---  

Phiên âm:

Tổn Pháp tài, diệt công đức

Mạc bất do tư tâm ý thức

Thị dĩ thiền môn liễu khước tâm

Đốn nhập vô sinh tri kiến lực

Dịch nghĩa:

Công đức giảm, pháp tài sa sút mãi

Thảy đều do: Tâm, Ý, Thức mà ra

Thế cho nên, Thiền Đạo đối với Tâm

Cần Trực Diện, un đúc sức Vô Sinh Tri Kiến

TRỰC CHỈ

TÂM tức là đệ bát thức, cũng gọi "A lại da", là "Di thục" hay "Nhất thiết chủng thức". Nó là tổng thể, hàm chứa hết mọi thứ: cả SẮC cả TÂM. Tên là ĐỆ BÁT THỨC TÂM VƯƠNG, nhưng nó còn có cái tên "Tàng". Vì vậy, nó không phải chỉ có phần "tâm" mà nó hàm tàng cả "sắc".

Ý: ở đây chỉ cái công dụng chấp ngã tức là "đệ thất thức". Ý làm "tổn pháp tài", "diệt công đức" thuộc hành đầu.

THỨC ở đây chỉ cho "tiền lục thức", công dụng tiếp thu, xuất nhập "lục cảnh": sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp.

Người đạo sĩ, chừng nào chưa chuyển thức thành trí, chưa làm chủ được bát thức tâm vương, chưa tăng tiến bồi dưỡng sức TRI KIẾN VÔ SINH thì hãy còn bị sự phân biệt, sự chấp nê, sự thị phi nhơn ngã tác động hoành thành. Do vậy mà "tổn pháp tài" và "công đức" suy mòn dần mất hết. Và cũng do vậy. Thiền gia rất xem trọng cái TÂM. Thiền gia chủ trương đối với TÂM phải trực diện với nó, phải nhìn thẳng vào mặt nó mà nhất cử nhất động của nó Thiền giả phải thấy hết, biết hết. Biết rõ từng nguyên nhân của ý nghĩ, biểu hiện lời nói và hành động: Đã khởi, đang khởi và sẽ khởi. Biết rõ cả hậu quả của nguyên nhân, dù còn trong ý niệm. Con người của mình, mình phải biết mình là ai. TÂM mình, mình phải "trực diện" với nó mọi nơi mọi lúc.

Thiền gia gọi đó là cách tu:

"Trực chỉ nhân tâm"

và "Kiến tánh thành Phật"

---o0o---


THI CA 30

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO BÁT NHÃ PHONG HỀ…

---o0o---

Phiên âm:

Đại trượng phu, bỉnh tuệ kiếm

Bát nhã phong hề kim cang diệm

Phi đản năng thôi ngoại đạo tâm

Tảo tằng lạc khước thiên ma đảm

Dịch nghĩa:

Chuôi kiếm tuệ, đại trượng phu nắm lấy

Bát nhã gươm, lóe sáng ánh kim cang

Không những xưa, sàm sở của "đạo ngoài"

Làm vỡ mật, bọn thiên ma nhếu nháo

TRỰC CHỈ

Tôn chỉ của đạo Phật, có TUỆ là có tất cả. Quả VÔ THƯỢNG BỔ ĐỀ là đỉnh cao tột của TUỆ. Quả VÔ THƯỢNG NIẾT BÀN là diệu dụng của TUỆ. Trong tam vô lậu học, GIỚI, ĐỊNH là hạt, là cây, là cành, là lá mà TUỆ là hoa, là trái. Tu GIỚI, tu ĐỊNH cốt để có được TUỆ. Hiểu được chân lý đó, người đệ tử Phật chân chính có học Phật, tu hành không sợ lầm lạc. Tu GIỚI, ĐỊNH phát sanh TUỆ GIÁC là tu đúng chánh pháp. Gọi là GIỮ GIỚI, gọi là TỌA THIỀN tốn công, khổ luyện, dù phải trải qua mấy mươi năm, mà không sanh TRÍ TUỆ, không có khả năng nhận thức chân lý, tư duy về chân lý, đó là tu sai lầm. Nhọc mệt thân tâm không đem lợi ích luống uổng một đời.

Nói một cách khẳng định rằng, tu hành mà không phát sanh TUỆ GIÁC thì không nên theo pháp đó nữa, vì đã sai lạc pháp tu, trồng phải một thứ cây không có hoa trái thì nên chặt bỏ nó đi.

"Đại trượng phu" là người phải nắm cho được cái chuôi "kiếm tuệ". Phải có khả năng sử dụng "gươm" BÁT NHÃ KIM CANG để "tồi tà phụ chánh", để đối phó ngoại đạo, thiên ma, phải làm cho chúng vỡ mật bay hồn, khiến cho chúng "chích luân bất phản", tấn công chúng "phiến giáp bất hoàn". Để "sử tri Phật giáo ta bà chi hữu chủ"!

Dưới mắt của người chứng đạo, người đệ tử Phật phải bồi dưỡng trí tuệ. Đó là ý nghĩa: DUY TUỆ THỊ NGHIỆP

---o0o---