Mục lục bài viết |
---|
Tôn Giả Đại Ca Diếp (Đầu Đà Đệ Nhất) |
Tôn Giả Đai Ca Diếp (Đầu Đà Đệ Nhất) Phần II |
Tất cả các trang |
8.- BÀ LÃO NGHÈO ĐƯỢC SINH LÊN CÕI TRỜI:
Một lần nọ, khi Phật bố giáo ở thành Xá Vệ thì công việc hoằng pháp ở khu vực thành Vương Xá đã do tôn giả Đại Ca Diếp chủ trì. Mỗi khi đi khất thực, tôn giả chỉ tìm đến những nhà nghèo chứ không bao giờ đến những nhà giàu, vì tôn giả quan niệm rằng, giàu nghèo gì cũng đáng thương cả, nhưng người nghèo thì mỗi ngày đều bị cái nỗi khổ về sinh kế làm cho lo rầu, nên phải đáng thương hơn. Hạng người nghèo khó, vì nghèo mà không bao giờ được an hưởng vui trần thế, tuy có được nghe chánh pháp, nhưng không có điều kiện để bố thí hầu hưởng được hạnh phúc của sự bố thí. Do đó, giống như dòng nước chảy, lòng từ bi của tôn giả luôn luôn tuôn đổ vào lớp người nghèo khổ đáng thương kia.
Trong kinh thành Vương Xá có một bà lão cực kì nghèo khổ, đã không có thân thích mà cũng chẳng có một túp lều để ở. Ban ngày thì lang thang từ phố đông sang chợ tây, đêm đến gặp xó hẻm nào thì nằm ngủ ở đó. Y phục của bà chỉ là một mớ lá tre chằm lại, không đủ để che kín thân thể. Đã thế, một ngày nọ lại bị bịnh trầm trọng, bà phải trốn một nơi chờ chết. Lúc đó, một người nô lệ của một nhà giàu nọ đem nước vo gạo đến đổ bên cạnh chỗ bà nằm. Bà lập tức lấy cái bát bể hứng lấy nước gạo ấy để uống đỡ đói.
Biết được bà lão đang trong tình trạng như vậy, Đại Ca Diếp lập tức tìm đến thăm bà. Từ khi bị bịnh nằm ở đây, chưa hề có ai đến thăm hỏi bà. Nay vừa có nghe tiếng động, bà liền ngồi dậy nhìn, thì ra là một vị tì kheo đi xin ăn, “Có lẽ vị tì kheo này lại còn nghèo hơn mình?” Nghĩ vậy nên bà nói:
- Thưa bà! Trên thế gian này, người đáng tôn quí nhất, người có lòng nhân từ nhất, chính là Phật, và sau đó là những người được gội nhuần ơn giáo hóa của Người. Hôm nay tôi đến đây xin ăn là để cứu giúp cái nghèo khổ sở của bà. Tôi cũng đã nghĩ tới việc đem của cải vật chất đến giúp đỡ bà, nhưng làm như thế thì chỉ giúp bà đỡ khổ trong chốc lát, rồi sự bần cùng lại càng gia tăng, chẳng ích lợi gì, chi bằng, hiện giờ bà có được bất cứ chút ít gì, xin hãy đem bố thí cho tôi, thì nhờ công đức ấy mà bà sẽ hưởng được hạnh phúc giàu sang trong kiếp sau, hoặc còn hơn thế nữa, bà sẽ được sinh lên các cõi trời, hưởng thọ phước báo dài lâu.
Bà lão chăm chú lắng nghe và cảm thấy được trong lời nói của tôn giả có chứa đựng một sự khuyên dạy tràn đầy tình thương, cho nên lòng rất xúc động, nhưng bà tìm mãi bên mình mà đâu thấy có thứ gì để cúng dường! Bà rất tủi thân, vừa khóc vừa nói:
- Kính bạch vị sa môn cao thượng! Lời dạy bảo quí báu của đại đức tôi xin khắc ghi vào tâm khảm, nhưng thưa đại đức, như ngài thấy đó, tôi là một kẻ hạ tiện nghèo khổ, một chút thức ăn cũng không có sẵn bên mình, quần áo cũng không có một manh lành lặn, muốn cúng dường ngài mà đâu biết phải làm sao!
- Thưa bà! Người đã có ý muốn bố thí tức không còn phải là người nghèo; người có tâm biết hổ thẹn thì tức là đã mặc được pháp y. Đó là hai vật báu hiếm có trên đời , mà hiện tại bà đã có được thì chắc chắn bà không phải là kẻ hạ tiện nghèo khổ nữa rồi! Bà biết không? Ở trên thế gian này, những người giàu có, vàng bạc châu báu ê hề, mà không biết gì là bố thí, là hổ thẹn, thì họ mới chính là những kẻ hạ tiện nghèo khổ.
Một lần nữa bà lại cảm thấy niềm pháp hỷ dâng lên tràn đầy. Bà bỗng quên mất sự nghèo khổ dơ dáy hiện tại của mình, lập tức lấy chỗ nước gạo vừa hứng được dâng lên cúng dường tôn giả Đại Ca Diếp. Tôn giả cung kính tiếp nhận và đưa lên miệng uống hết ngay. Cử chỉ chân thành ấy của tôn giả đã làm cho bà vui mừng cùng cực.
Sau đó không bao lâu, lão bà từ trần, được vãng sinh lên cõi trời Đao Lợi, và trở thành một vị thiên nữ diễm lệ. Một hôm, nhân nhớ lại tiền kiếp của mình, để đáp đền ơn đức của tôn giả Đại Ca Diếp, vị thiên nữ ấy đã hạ giáng, tung rải hoa trời khắp người tôn giả để cúng dường.
9.- MỘT TRƯỜNG HỢP KHÔNG HÀI LÒNG:
Một lần nọ, tôn giả vâng mệnh Phật đến xem xét tình hình sinh hoạt của tăng chúng ở thành Khoáng Dã. Buổi sáng hôm âý tôn giả y áo chỉnh tể, tay ôm bình bát, oai nghi nghiêm túc, đi vào thành khất thực. Tôn giả đi ngang qua mấy con đường trong phố thì phát hiện ra rằng, nhà nào vừa trông thấy bóng tôn giả từ đàng xa là vội vàng đóng chặt cửa lại. Tôn giả liền ra khỏi thành và đi vào một làng nhỏ thì sự việc xảy ra cũng giống y hệt như vậy. Tôn giả rất lấy làm lạ. Trước đây Phật pháp ở vùng này rất hưng thịnh, sao bây giờ dân chúng đối với tăng đoàn không còn chút gì kính trọng? Tôn giả cố đi tìm cho một người quen biết ngày trước để hỏi thăm:
- Đức Thế Tôn rời thành Khoáng Dã này cũng chưa lâu lắm, nơi đây cũng vẫn có chúng tăng đang hành hóa, thế tại sao mọi người lại mất đi lòng cung kính đối với Tam Bảo, không cúng dường cho chư tăng đi khất thực?
Vị thí chủ đó trả lời:
- Thưa đại đức! Sau khi đức Thế Tôn rời thành này, trong vài năm nay, chư tăng ở đây phát khởi phong trào xây cất. Họ đua nhau xây dựng nhà cửa, phòng ốc, nói là đã được Thế Tôn cho phép. Nói cho ngay, nếu chư tăng xây cất tịnh xá, giảng đường để làm nơi hoằng pháp và tu tập cho tăng đoàn thì bọn cư sĩ chúng con phải hết lòng ủng hộ, đàng này họ chỉ lo xây cất toàn những nhà cửa nhỏ bé dùng làm nơi nhàn lạc riêng tư; nào gỗ đá, gạch ngói, dây nhợ, chuyên chở các thứ; nay gọi tín chúng hoan hỉ việc này, mai bảo tính chúng hỉ xả việc nọ. Dần dần dân chúng đều cảm thấy hoang mang lo ngại, chẳng biết tình trạng này rồi sẽ kéo dài cho đến bao giờ mới chấm dứt! Họ đâm ra nản lòng, cả trong thành, ngoài thành, hễ trông thấy chư tăng là họ liền đóng cửa cài then để khỏi bị hình dịch. Ôi, càng nói ra chúng con càng cảm thấy có lỗi với đức Thế Tôn!
Thấy được tình hình không ổn, tôn giả liền trở về thành Vương Xá ngay để trình mọi việc lên đức Phật. Nghe xong, Ngài liền cùng với tôn giả trở lại thành Khoáng Dã, nhóm họp chư tăng lại, dạy họ không nên lợi dụng lòng tin của tín đồ. Phật dạy:
- Chánh pháp của Như Lai được lưu truyền là nhờ vào sự thanh tịnh và cao thượng của tăng đoàn. Khi người tu học đạt đến chỗ vô cầu thì phẩm cách của họ tự nhiên dâng cao. Cho nên quí thầy không nên cứ đòi hỏi tín chúng phải cung cấp thức này vật nọ; mà trái lại, quí thầy lúc nào cũng phải nghĩ tới việc phụng sự chúng sinh. Quí thầy đừng bao giờ làm cho tín chúng khởi tâm niệm bất mãnh đối với tăng đoàn. Nhiệm vụ trọng yếu của qưí thầy là hoằng pháp độ sinh chứ không phải là việc tính toán lo liệu về chỗ ở riêng tư. Nếu quí thầy muốn xây cất tịnh xá, giảng đường để làm cơ sở tu học và hoằng pháp cho tăng đoàn thì điều đó nên làm, Như Lai hoan hỉ chấp nhận. Quí thầy nên biết, nếu mỗi thầy đều lo xây cất tăng xá riêng cho mình thì lực lượng của giáo đoàn tức khắc bị phân tán; vì rằng, tăng xá này sẽ đối lập với tăng xá kia, mỗi vị sẽ tự cô lập mình, và đoàn thể sẽ không còn nữa!
Dạy bảo chư tăng xong, Phật trở về Vương Xá và lưu tôn giả ở lại đó để lo chấn chỉnh lại mọi sinh hoạt tu học của tăng chúng địa phương, hầu lấy lại lòng tin của tín đồ. Sau khi mọi việc đã trở lại bình thường, tôn giả liền rời Khoáng Dã để trở về trú xứ tiếp tục tu tập.
10.- TÔN GIẢ AN NAN TẶNG BÌNH BÁT:
Tôn giả Đại Ca Diếp rất được Phật tín nhiệm. Phật lúc nào cũng ái hộ tôn giả, cho cả đối với những sự việc thật nhỏ nhặt.
Trong giáo đoàn của Phật có nhóm tì kheo Mãn Túc (Punarvasu), gồm sáu vị, thường được gọi là “lục quần tì kheo” (sadvargikabhiksu - chabbaggiyabhikkhu). Họ kết bè đảng với nhau để phá rối, làm các điều tệ hại. Sở dĩ Phật đã chế ra nhiều giới luật là cũng vì mấy vị này. Có một lúc tại tu viện Kì Viên, nhóm tì kheo này đã đua nhau cất chứa bình bát. Thời bấy giờ, một cách tổng quát, bình bát có hai loại: loại bằng thiếc và loại bằng sành. Nhưng thật ra tùy theo chất liệu, màu sắc và địa phương chế tạo mà người ta đã phân ra có sáu loại bình bát khác nhau: bát thiếc, bát tô ma (sản xuất ở nước Tô Ma), bát ô già (nước Ô Già), bát ưu già (nước Ưu Già), bát đen, và bát đỏ. Trong những loại bình bát này, nhóm “lục quần tì kheo” chuyên sưu tầm những bát thật tốt, thật quí để cất chứa. Họ bày thật nhiều bình bát, đủ kiểu, trong phòng riêng của họ, trông giống như một cửa tiệm bán đồ gốm. Từ sáng đến tối họ không để tâm đến việc tu học mà chỉ lo làm những việc tương tự như vậy mà thôi. Giáo đoàn của Phật là giáo đoàn khát sĩ, chỉ đi khất thực để sống, cho nên việc cất giữ tiền bạc vàng ngọc tuyệt đối bị cấm chỉ, ngay cả vải vóc, lúa gạo cũng không được tích trữ; bởi vậy nhóm tì kheo này mới chuyển hướng ham thích của họ sang việc sưu tầm và cất chứa bình bát quí! Khi Phật biết được điều đó, bèn chế ra điều giới, cấm tăng đoàn không được tích trữ bình bát.
Chính vào hôm Phật cho ban bố điều giới này thì tôn giả A Nan cũng vừa có được một bình bát tô ma rất quí và muốn cúng dường tôn giả Đại Ca Diếp; nhưng không may cho A Nan là lúc ấy tôn giả Đại Ca Diếp đang hành hóa ở xứ khác, không có mặt tại Xá Vệ. Nếu y theo điều giới trên thì tôn giả A Nan không được phép giữ lại chiếc bát đó dù là chỉ trong thời gian ngắn cho đến khi tôn giả Đại Ca Diếp trở về. Chẳng biết làm sao hơn, A Nan bèn đem chuyện ấy trình lên Phật. Phật hỏi:
- Chừng nào thì thầy Đại Ca Diếp về đến Xá Vệ?
- Bạch Thế Tôn! Khoảng mười ngày nữa.
Phật bèn triệu tập đại chúng, giảng nói về phương pháp chánh đáng và nghiêm túc của người tu hạnh đầu đà, và khen ngợi tôn giả Đại Ca Diếp như là một vị tu hạnh đầu đà mẫu mực, không hề có khuyết điểm nào, Phật lại bảo quí vị trong nhóm “lục quần tì kheo” hãy theo học hạnh đầu đà với Đại Ca Diếp. Sau đó, do sự việc cúng dường bình bát của tôn giả A Nan, Phật lại đặc biệt châm chế cho phép điều giới trên sẽ có hiệu lực sau mười ngày kể từ hôm ấy.
11.- CHỈ CHUYÊN TU KHỔ HẠNH:
Đại Ca Diếp suốt đời tu tập, chỉ tu hạnh đầu dà. Một lòng chuyên nhất, dù ở trong tình huống nào, dù có ai khuyên bảo, tôn giả vẫn không thây đổi chí hướng. Người tu khổ hạnh như vậy, phải giữ 10 điều như sau: 1) Thường ở chỗ hoang vắng; 2) Thường ở một chỗ; 3) Thường ở nơi bãi tha ma; 4) Xin ăn để sống; 5) Xin ăn không được chọn lựa nhà giàu nhà nghèo; 6) Chỉ ăn một ngày một bữa; 7) Chỉ giữ bên mình ba chiếc áo, một tọa cụ và một bình bát; 8) Áo mặc phải là một tấm vải gồm nhiều mảnh giẻ rách người ta bỏ đi, lượm và chắp lại; 9) Thường ngồi tư duy ở dưới gốc cây; 10) Thường tĩnh tọa nơi đồng trống.
Một người chỉ chuyên cần với nếp tu tập khổ hạnh như tôn giả Đại Ca Diếp, chỉ thích ở riêng một mình, rất ít khi giáo hóa độ sinh, nếu so sánh với những vị tì kheo tiến bộ, tích cực, thì tôn giả hoàn toàn khác biệt. Tuy lòng từ bi vi người của tôn giả vẫn có đủ để được mọi người kính ngưỡng, nhưng nhiệt tình của tôn giả đối với công cuộc hoằng pháp thì rõ ràng là thiếu sót.
Trong thời kì Phật và hai vị đệ tử lớn là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên còn tại thế, phải nói rằng, trách nhiệm giáo hóa chúng sinh cũng như việc đối phó với ngoại đạo, trừ Phật ra thì chính hai vị tôn giả ấy đã gánh vác phần lớn; còn tôn giả Đại Ca Diếp thì chỉ chuyên tâm tu tập, thỉnh thoảng lắm mới có một lần thuyết pháp chúng tại gia nghe. Sau khi Phật nhập diệt thì tôn giả tự nuôi lớn thực lực và trở thành người có đầy đủ khả năng và tư cách nhất để thay thế Phật nắm vững giáo đoàn. Lúc bấy giờ thì tôn giả giống như một quả chuông đại hồng, lúc trầm mặc thì thật là trầm mặc, nhưng lúc hữu sự thì phát tiếng ngân vang khắp chốn.
Trước kia cũng đã có lần hai vị tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên khuyên tôn giả hãy quên mình đi và phát tâm bồ đề, nhận lãnh sứ mạng hoằng pháp lợi sinh, xiển dương chân lí, nhưng trước sau tôn giả vẫn một mực giữ vững chí hướng của mình. Tôn giả nói:
- Tôi không dám nhận lãnh trách nhiệm hoằng dương chánh pháp, giáo hóa chúng sinh. Việc giáo hóa cho những kẻ không có lòng tin hoặc những ác tâm thì tôi thật sự không có đủ can đảm và nghị lực. Điều mà tôi cố gắng thực hiện tối đa trong nếp sinh hoạt tu học của riêng tôi là dựng nên một khuôn mẫu tu hành gian khổ để cho người đời sau trông thấy và biết tôn trọng cùng thực hành nếp sống thiểu dục tri túc của người tu hạnh đầu đà. Hoằng pháp lợi sinh là nhiệm vụ vô cùng trọng đại, xin hoàn toàn trông cậy ở hai sư huynh.
Tuy thế, hai vị tôn giả ấy vẫn không lấy đó làm thất vọng, trái lại còn xưng tụng:
- Đúng ra thì Phật pháp bao gồm nhiều phương diện, mỗi người nên theo đuổi cái lí tưởng thực tiễn của riêng mình. Sư huynh có đủ khả năng và nghị lực để dương ngọn cờ chánh pháp ở một phương diện, thì đó cũng là một công phu lớn lao phi thường. Chúng tôi vô cùng hoan hỉ.
Tôn giả Đại Ca Diếp không thích cái nếp sống tập thể tại các tu viện như Trúc Lâm hay Kì Viên, và thậm chí còn ghét những nơi nào có cái không khí vui vẻ, tươi mát; triá lại, tôn giả chỉ thích tĩnh tọa ở những nơi trống vắng, hoặc ngồi quán tưởng xác chết nơi các gò mả, hay nghỉ ngơi vá áo dưới gốc cây. Tôn giả nhận thức rằng, chính những tử thi hôi thối hoặc những hài cốt trơ vơ kia mới thực sự giúp ích cho công phu thiền quán, nhất là những phép quán về vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh v.v... Tôn giả không hề sợ mưa to gió lớn, sương nắng ngặt nghèo. Dù về già thân thể khô gầy, tôn giả vẫn cứ sống một mình trong núi sâu rừng rậm, hoặc ở các bãi tha ma đầy dẫy xương khô; đối với nếp tu tập đầu đà khổ hạnh, dù bất cứ ai khuyên bảo, tôn giả vẫn không bỏ dở.
12.- ĐỨC PHẬT CHIA HAI CHỖ NGỒI:
Càng về già, Đại Ca Diếp càng tinh nghiêm hơn trong nếp tu tập hạnh đầu đà. Thấy tôn giả tuy đã tuổi già sức mỏi nhưng cứ vẫn một mực dầm sương dãi nắng, vẫn can trường với gió thét mưa gào, Phật cũng lấy làm ái ngại, muốn khuyên tôn giả nên đình chỉ lối tu ấy.
Bấy giờ Phật đang ngự tại giảng đường Lộc Mẫu (Mrgaramatr - Migaramata - gần tu viện Kì Viên, thành Xá Vệ). Một hôm Phật cho người đi mời tôn giả. Tôn giả mặc áo chằm, râu tóc dài ngoằng, chân bước khập khiểng, đến hầu Phật. Những vị tì kheo mới tu đâu có biết tôn giả là ai, thấy nghi dung tiều tụy như vậy, thì chỉ nhìn tôn giả bằng cặp mắt khinh rẻ; thậm chí có vị còn cản trở không cho tôn giả đến gần Phật. Phật thấy rõ cái tâm lí ấy của họ, cho nên từ xa đã vẫy gọi:
- Hãy lại đây, thầy Đại Ca Diếp! Như Lai đã chừa sẵn một nửa chỗ ngồi ở đây, thầy hãy đến cùng ngồi với Như Lai!
Nghe Phật bảo thế, quí vị tì kheo kia liền run sợm, vì lúc đó họ mới biết vị trưởng lão kia chính là tôn giả Đại Ca Diếp, tiếng tăm lừng lẫy trong giáo đoàn mà họ đã từng nghe danh nhưng chưa biết mặt.
Tôn giả lạy Phật xong, bước lui vài bước, rồi thưa:
- Bạch Thế Tôn! Con chỉ là người đệ tử hèn mọn của Thế Tôn. Con không dám ngồi chung chỗ ngồi với Thế Tôn.
Phật liền hướng về đại chúng, nói rõ cho họ biết về oai đức rộng lớn vô biên của Đại Ca Diếp cũng như lịch trình tu hành của tôn giả thật giống như Phật; và rằng giả sử đời này dù không gặp Phật thì tôn giả tự mình tu tập cũng đạt được giác ngộ, chứng được quả vị Độc giác. Vì vậy mà không ai ngạc nhiên khi thấy Phật đặc biệt coi trọng tôn giả và đã dành cho tôn giả một địa vị trọng yếu trong tăng đoàn. Hôm ấy Phật cũng nhân tiện khuyên tôn giả không nên tiếp tục nếp sống khổ hạnh mà trở lại nếp sống bình thường để cho tuổi già đỡ phải chịu lao khổ thái quá. Dù thâm cảm đối với sự ân cần của Phật, tôn giả vẫn không chịu thay đổi nếp sống khổ hạnh của mình. Tôn giả thưa:
- Bạch Thế Tôn! Nếp sống khổ hạnh đối với con không có gì là khổ sở thái quá cả, trái lại con là một nếp sống vô cùng an vui. Con không phải lo lắng gì về cơm ăn áo mặc, không liên quan gì đến sự được mất của người đời, thật là một nếp sống hoàn toàn thanh tịnh, tự do và giải thoát. Bạch Thế Tôn! Lẽ dĩ nhiên là người ta sẽ cho rằng con sống như vậy là chỉ sống cho riêng mình, không như các sư huynh con là Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên, v.v... từng gánh vác trách nhiệm hoằng dương Phật pháp, không sợ khó khăn, không tiếc thân mạng, chỉ cốt làm sao cho bánh xe pháp được quay mãi, cho mọi chúng đều được thấm nhuần pháp vị, đều được ân hưởng pháp lạc, nhưng dù không đủ nhiệt tình đối với công việc hoằng pháp, con vẫn không bao giờ quên được ân đức của Thế Tôn đối với con; và vì để báo đền ân đức ấy của Thế Tôn mà con càng cố giữ nếp tu tập khổ hạnh. Con trộm nghĩ, chúng sinh được cứu độ là còn nhờ vào sự giáo hóa của tăng đoàn. Những vị làm công tác hoằng pháp sẽ trở thành những vị pháp sư gần gũi nhất của dân chúng; cho nên, trước hết tự bản thân họ - cũng tức là tự bản thân của tăng đoàn - phải được kiện toàn thì công việc hoằng pháp mới hoàn toàn ích lợi. Nhưng bản thân của tăng đoàn cần phải được kiện toàn như thế nào? Con nghĩ, chỉ có một cách duy nhất là tăng đoàn phải có một nếp sinh hoạt thật nghiêm túc để từ đó mà nồi dưỡng đức hạnh cho cá nhân mình. Trong giáo pháp của Thế Tôn thì hạnh đầu đà là một phương thức sinh hoạt nghiêm túc nhất. Phải tu tập nếp sống này thì mói chịu được khó nhọc, mới có thể nhẫn nại, mới có thể sống đạm bạc, mới có thể nhất tâm nhất đức và vì pháp vì người. Bạch Thế Tôn! Con cũng vì muốn góp phần trực tiếp củng cố tăng đoàn và đồng thời gián tiếp làm lợi lạc cho chúng sinh nên con vẫn hoan hỉ tiếp tục nếp sống khổ hạnh. Xin Thế Tôn tha thứ cho tội cố chấp của con!
Phật rất hoan hỉ nhìn Đại Ca Diếp, rồi nhìn xuống đại chúng nói:
- Quí thầy đã nghe rõ những lời của trưởng lão Đại Ca Diếp chưa! Trong tương lai, nếu chánh pháp của Như Lai bị hủy diệt thì không phải là do thiên ma hay ngoại đạo phá hoại, mà chính là do tăng đoàn hủ hóa, băng hoại! Đại Ca Diếp đã nói rất đúng. Muốn hoằng dương Phật pháp để cho ánh sáng chân lí vĩnh viễn rọi chiếu ở thế gian thì điều tiên quyết là tăng đoàn phải được củng cố; mà muốn củng cố tăng đoàn thì mọi người phải sống nếp sống thật nghiêm túc. Chánh pháp của Như Lai, phải có những vị như Đại Ca Diếp mới có đủ khả năng và tư cách để chủ trì.
Hướng về tôn giả Đại Ca Diếp, Phật bảo:
- Đại Ca Diếp! Vậy thì thầy hãy trở về chỗ ngụ để tiếp tục tu tập theo con đường thầy đã chọn. Như Lai không ép thầy nữa. Bất cứ lúc nào muốn gặp Như Lai, thầy cứ tùy tiện đến vói Như Lai!
13.- KẾ THỪA Y BÁT CỦA PHẬT:
Thời gian qua mau, bấy giờ Phật đã 80 tuổi thọ. Duyên hóa độ của Phật ở thế gian cũng đã mãn. Tin Phật sắp nhập niết bàn đã được truyền khắp nơi cho chư tăng ni biết. Trước đó, tôn giả Mục Kiền Liên đã tuẫn giáo, và tôn giả Xá Lợi Phất cũng nối tiếp nhập diệt. Giờ đây, trước khi nhập niết bàn, Phật cũng đã nghĩ đến việc chọn người thừa kế để chủ trì công cuộc hoằng pháp cũng như để lãnh đạo giáo đoàn. Chỉ còn hai vị có thể được chọn: lớp già thì có Đại Ca Diếp, lớp trẻ thì có A Nan. Trong hai vị này thì tôn giả Đại Ca Diếp đã từng được trao cho “kho tàng của cái thấy mầu nhiệm” (chánh pháp nhãn tạng) ở pháp hội Linh Sơn thuở nọ, cho nên đã mặc nhiên được Phật chấp nhận là người thừa kế tôn vị của Phật.
Phật nhập niết bàn tại thành Câu Thi Na (Kusiangara - Kusinara). Hôm ấy tôn giả Đại Ca Diếp không có mặt. Tôn giả đang hướng dẫn tu học cho năm trăm vị tì kheo ở tận phương Bắc, nước Đạc Xoa Na Kì. Vừa được tin, tôn giả quá đau thương, tức tốc dẫn theo năm trăm vị ấy, đi ngày đêm không nghỉ để về Câu Thi Na. Đến nơi, tôn giả thấy có vị thì mặt buồn ngồi yên lặng, có vị thì nằm lăn ra đất khóc lóc thảm thiết, nhưng có vị trong nhóm “lục quần tì kheo” thì lại đang hân hoan nói:
- Quí vị làm gì mà phải khóc thương như vậy? Phật nhập niết bàn rồi chúng ta mới được tự do. Lúc còn sống thì ông già ấy nói năng gì cũng cốt để bó buộc chúng ta, kềm chế chúng ta. Ông ấy cứ hay nói cái này không tốt, cái kia không đúng. Ông ấy nói nhiều quá, làm phiền chúng ta quá! Bây giờ ông già ấy đã nhập diệt rồi, chúng ta được nhẹ nhàng, thoải mái biết mấy!
Một vì tì kheo muốn đuổi vị ấy ra khỏi phạm vi hỏa đàn, nhưng tôn giả ngăn lại, bảo vị “lục quần tì kheo:
- Đức Thế Tôn đã nhập diệt niết bàn, mọi người đều đau buồn vì mất nơi nương tựa. Sao thầy lại dại dột cười vui và nói lên những lời sai quấy như vậy!
Hôm ấy đã là ngày thứ bảy sau ngày Phật nhập diệt. Hỏa đàn và mọi thứ chuẩn bị cho lễ trà tì đều đã sẵn sàng. Tôn giả vào đến chỗ đặt kim quan thì một chân của Phật thò ra khỏi kim quan. Tôn giả không cầm được nước mắt, vội vàng đảnh lễ và bạch:
- Kính lạy Thế Tôn! Xin Thế Tôn yên tâm. Chúng con sẽ nương theo bước chân của Thế Tôn mà đi tới.
Tôn giả nói xong thì chân Phật thu trở lại vào kim quan, và hỏa đàn liền tự nhiên bốc cháy. Từ đó, trách nhiệm lưu truyền chánh pháp đã do tôn giả gánh vác.
14.- KẾT TẬP THÁNH ĐIỂN:
Chín mươi ngày sau khi Phật diệt độ, đại hội kết tập pháp tạng được cử hành.
Trướ hết, việc chọn lựa địa điểm và lo những chi phí cho đại hội đã là những việc khó nhọc cho tôn giả Đại Ca Diếp. Các tu viện Trúc Lâm và Kì Viên đều quá rộng lớn, hơn nữa, lại có rất nhiều quí vị tì kheo chưa chứng quả li dục. Cuối cùng, tôn giả đã quyết định chọn Tất Bát La (Pippaliguha), một hang đá thật rộng rãi, ẩn kín, ở phía Đông Nam thành Vương Xá, để làm địa điểm kết tập. Trong đại hội này, năm trăm vị A La Hán đệ tử xuất sác của Phật đã vân tập và đã suy tôn quí vị tôn giả Đại Ca Diếp, A Nan, A Na Luật, Ưu Ba Li và Phú Lâu Na lên hàng thượng thủ. (Lúc này quí vị đệ tử lớn khác của Phật như Kiều Trần Như, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, La Hầu La, đều đã nhập niết bàn; còn Tu Bồ Đề và Ca Chiên Diên thì không thấy vết tích.- Chú thích của người dịch).
Trước tiên, với tư cách thủ tọa, tôn giả Đại Ca Diếp đã trách cứ tôn giả A Nan ngay trước mặt đại chúng về sáu khuyết điểm, mà quan trọng nhất là cho tới giờ phút đó tôn giả A Nan vẫn chưa chứng thánh quả A La Hán. Lời trách cứ của tôn giả thật oai nghiêm không thua gì Phật, khiến cho tôn giả A Nan không dám nói năng, chỉ biết nhận lãnh để thi hành. Từ ngày thứ hai của đại hội trở đi, lần lượt, tôn giả A Nan tụng lại các kinh, tôn giả Ưu Ba Li tụng lại các giới luật, và tôn giả Phú Lâu Na tụng lại các điều nghị luận, hoàn thành ba kho tàng quí báu của Phật pháp. Pháp vũ cam lộ của Phật, kho thánh điển rộng lớn như biển cả mà chúng ta còn được thừa hưởng ngày hôm nay, chính là do ân đức của tôn giả Đại Ca Diếp vậy.
Khi Phật còn tại thế, trong khi quí vị tôn giả anh tài vốn là các đệ tử thủ túc của Phật, như Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, hoạt động rất tích cực ở trong cũng như ngoài giáo đoàn, thì tôn giả Đại Ca Diếp chỉ lặng lẽ tu khổ hạnh; thỉnh thoảng lắm mới có vài hoạt động bố giáo. Nhưng từ sau khi hai vị tôn giả kia và Phật lần lượt nhập diệt thì tôn giả mới lộ rõ ra là một người có đầy đủ khả năng và oai đức để lãnh đạo giáo đoàn. Lúc bấy giờ, tôn giả quả thật là khối đá tảng của đạo pháp.
Thái độ của tôn giả rất là bảo thủ, không giống với tinh thần cấp tiến của hai tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Cho nên những phong cách tu hành ẩn dật, rừng núi, khổ hạnh và bảo thủ của Phật giáo ngày nay, đã chịu ảnh hưởng phần lớn từ tôn giả Đại Ca Diếp, điều đó không thể phủ nhận được.
15.- HẸN GẶP NHAU Ở PHÁP HỘI LONG HOA:
Khoảng hai ba mươi năm sau ngày Phật nhập niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp bỗng nảy sinh niệm chán đời.
Tôn giả nghĩ: “Đức Thế Tôn là bậc Đạo Sư của ta. Như cha mẹ thương cho nên, ân đức của Người đối với ta sâu rộng như biển. Để báo đền phần nào ân đức ấy, ta đã tận lực hoằng truyền chánh pháp, mong được trường tồn mãi đến ngàn sau. Bây giờ thì ta đã già nua quá rồi, yếu đuối quá rồi, đâu còn làm gì được nữa; chi bằng ta nhập niết bàn thì có phải là đúng lúc không!”. Năm ấy tôn giả đã trên một trăm tuổi thọ.
Suy nghĩ như vậy, tôn giả liền tìm đến tịnh thất của tôn giả A Nan, phó chúc pháp tạng cho A Nan thừa kế rồi lần lượt đến từng ngôi tháp thờ xá lợi Phật cúng dường lễ bái. Sau đó tôn giả trở về thành Vương Xá để từ biệt vua A Xà Thế, nhưng quân cận vệ cho tôn giả biết là nhà vua đang ngủ. Tôn giả bèn rời thành Vương Xá đi về hướng núi Chân Gà, cách thành hơn tám dặm về phía Tây Nam. Núi này gồm có ba ngọn cao chót vót, làm thành hình chân gà. Từ lưng chừng núi trở xuống toàn là cỏ rậm, lưng chừng núi trở lên thì toàn là rừng cây sầm uất. Khi tôn giả lên đến núi thì cả ba ngọn tự nhiên đồng mở ra, để lộ một chỗ ngồi. Tôn giả liền lấy cỏ lót thành một chiếc đệm và ngồi xuống, rồi tự nói với mình: “Nay ta phải lấy chiếc áo chằm để che chở và dùng sức thần thông để giữ gìn thân xác này, đợi đến sáu triệu bảy trăm ngàn năm sau, khi đức Bồ Tát Di Lạc giáng trần thành Phật thì ta lại tìm đến bái kiến và trợ giúp Người giáo hóa chúng sinh". Tôn giả nói xong thì cả ba ngọn của núi Chân Gà liền khép lại, giấu kín nhục thân của tôn giả.
Vua A Xà Thế khi biết được tin tôn giả nhập diệt thì buồn thưong không kể xiết, lập tức tìm đến bái kiến tôn giả A Nan và mời cùng đi lên núi Chân Gà. Khi hai vị đến nơi thì ba ngọn núi lại đồng loạt mở ra, để lộ cho họ thấy tôn giả Đại Ca Diếp đang ngồi ngay ngắn trong tư thế thiền định. Hai vị liền cúng dường lễ bái rồi lui xuống, tức thì ba ngọn núi đóng lại như cũ ...
Sưu Tầm
- Liên Tông Đệ Nhị Tổ Thiện Đạo Đại Sư
- Liên Tông Đệ Nhất Tổ Huệ Viễn Đại Sư
- Tôn Giả La Hầu La (Mật Hạnh Đệ Nhất)
- Tôn Giả A Nan (Đa Văn Đệ Nhất)
- Tôn Giả Ưu Ba Ly (Trì Giới Đệ Nhất)
- Tôn Giả A Na Luật (Đệ Nhất Thiên Nhãn)
- Tôn Giả Ca Chiên Diên ( Luận Sư Đệ Nhất)
- Tôn Giả Tu Bồ Đề (Giải Không Đệ Nhất)
- Tôn Giả Phú Lâu Na (Giảng Sư Đệ Nhất)
- Tôn Giả Mục Kiền Liên (Thần Thông Đệ Nhất)
- Thiền Sư Chân Nguyên
- Tôn Giả Xá Lợi Phất (Trí Tuệ Đệ Nhất)