Mục lục bài viết |
---|
Tôn Giả Xá Lợi Phất (Trí Tuệ Đệ Nhất) |
Tôn Giả Xá Lợi Phất Phần II |
Tôn Giả Xá Lợi Phất Phần 2 |
Tất cả các trang |
Tôn Giả Xá Lợi Phất (Trí Tuệ Đệ Nhất) Phần 1
1.- TRƯỚC VÀ SAU KHI RA ĐỜI:
Thành Vương Xá (Rajagrha - Rjagaha) là kinh đô của vương quốc Ma Kiệt Đà (Magadha), ở miền Nam Ấn Độ. Cách thành này chừng vài dặm, có một thôn trang tên là Ca La Tí Noa Ca (Nalaka), rừng trúc xinh tươi, non xanh nước biếc, cảnh trí thật là u nhã. Đó là quê hương của tôn giả Xá Lợi Phất, vị đệ tử có trí tuệ lớn của đức Phật.
Xá Lợi Phất được sinh ra trong một gia đình thuộc dòng Bà la môn. Thân phụ của tôn giả đã từng là một luận sư nổi tiếng của đạo Bà la môn. Thân mẫu tôn giả, trong thời gian mang thai tôn giả thì tâm trí trở nên linh mẫn khác thường, đến nỗi ông em ruột của bà là Câu Hi La (Kausthila - Kotthita), vốn dĩ cũng là một tay nghị luận cự phách đương thời mà cũng phải chịu thua bà. Bởi vậy, ông rất lấy làm hổ thẹn, phải bỏ nhà mà đi. Ông biết rằng, chị mình đã chịu ảnh hưởng của cái bào thai, và đứa bé đang nằm trong bụng mẹ kia, sau này nhất định sẽ là một bậc có trí tuệ hơn người; nếu mình không cố công học hỏi thêm thì thế nào cũng phải thua kém đứa cháu ấy, rồi người ta cười cho thì sao! Cho nên sau khi rời khỏi nhà, ông đã đi khắp nơi tìm các bậc minh sư để cầu học. Ông chuyên cần cho đến nỗi móng tay mọc dài mà không có thì giờ để cắt, khiến cho ai ai cũng gọi ông là Trường Trảo Phạm Chí (Dirghanakha - Dighanakha - ông thầy tu móng dài). - Về sau, nhân thấy Xá Lợi Phất qui y làm đệ tử Phật, ông cũng xuất gia theo Phật làm sa môn.
Khi lên tám tuổi, Xá Lợi Phất đã làu thông kinh sử. Lúc bấy giờ, ở nước Ma Kiệt Đà có hai anh em Cát Lợi và A Già La, đều là hàng trưởng giả. Một hôm, họ thết tiệc lớn khoản đãi quốc vương, thái tử, các vị đại thần, cùng các vị luận sư. Trong phòng bày tiệc, tất cả chỗ ngồi của khách đều được qui định rõ ràng, tùy theo thân danh và địa vị từng người; thế mà cậu bé tám tuổi Xá Lợi Phất kia, không biết sợ sệt ai hết, đã dám ngang nhiên leo lên chỗ ngồi cao quí dành có các vị luận sư để ngồi. Lúc đầu, các vị đại thần và luận sư thấy thế thì cứ cho Xá Lợi Phất vì còn là con nít không biết, gì, cho nên không thèm nói năng gì tới, lại còn cho đám đệ tử trẻ tuổi của họ đến chơi với cậu; nhưng một lúc sau, nghe cách nói năng của Xá Lợi Phất rất là khác thường, ngôn từ rõ ràng, khúc chiết, nghĩa lí tinh tường, rành mạch, thì các các quan đại thần, các vị đại luận sư đều lấy làm kinh ngạc, khen ngợi và bái phục, riêng quốc vương thì vô cùng hoan hỉ, liền truyền lịnh lấy ngay một thôn trang thưởng cho Xá Lợi Phất. Cậu thần đồng tám tuổi ấy thật đã làm rạng rỡ cho gia đình, và chính ngay thân phụ của cậu, vốn là một danh gia đương thời, cũng phải công nhận rằng sự thông minh tài trí của ông không thể sánh kịp với đứa con cưng quí của mình.
2.- BẬC THẦY CHÂN CHÍNH:
Xá Lợi Phất lớn lên, trở thành một thanh niên cao lớn, nét mặt thanh tú, đôi mắt có thần, tay dài quá gối, được di truyền của thân phụ, cho nên cũng có cái phong độ của một nhà học giả trứ danh. Trong giới học thuật bấy giờ, không ai là không biết đến đại danh của chàng thanh niên “hậu sinh khả úy” đó.
Năm hai mươi tuổi, Xá Lợi Phất xin phép song thân đi du phương học đạo, tìm cầu chân lí. Đầu tiên, chàng đến xin học với một thầy Bà la môn tên là San Xà Da (Sanjavairattiputra - Sanjayabelatthiputta). Một thời gian sau, vì thấy San Xà Da không đủ khả năng làm thỏa mãn ước vọng của chàng, Xá Lợi Phất lại muốn từ giã thầy để đi nơi khác.
Lúc bấy giờ, trong số bạn học, có một thanh niên tên Mục Kiền Liên (Maudgalyayana - Moggallana), là người bạn tri kỉ duy nhất của chàng. Chàng bèn nói ý tưởng của mình cho Mục Kiền Liên biết, và Mục Kiền Liên cũng có ý tưởng giống như vậy. Hai người liền quyết định rời học viện của San Xà Da và tự mình chiêu tập đồ chúng để lập nên một học viện mới. Cả hai người đều tự cho rằng, trên thế gian không còn ai thông minh tài trí hơn họ, cho nên không còn ai có đủ tư cách và khả năng xứng đáng để làm thầy họ nữa.
Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, không những tuổi tác xấp xỉ bằng nhau, mà tư tưởng và trình độ học vấn cũng không khác nhau mấy. Cả hai người cùng có chí nguyện quyết tìm cầu chân lí. Họ thương kính nhau, ở cùng nhau, và cư xử với nhau thật vô cùng hòa hợp. Từ đây, họ chỉ cùng học hỏi với nhau và dạy dỗ đồ chúng ở trong học viện, ngoài ra, trong toàn cõi Ấn Độ, họ không còn thấy có bất cứ nhà học giả nào đáng kể dưới mắt họ. Cho đến một hôm Xá Lợi Phất bỗng nhìn thấy thầy A Thị Thuyết (hay A Thuyết Thị, A Xả Bà Thệ, Át Bệ, Asvajit - Assaji, là một trong năm vị tì kheo đầu tiên xuất gia làm đệ tử Phật, đã từng nhiều năm tu khổ hạnh, đến khi được nghe Phật dạy về giáo lí “Bốn Sự Thật” thì chứng quả thánh) trên một đường phố trong kinh thành Vương Xá ...
Dáng vẻ của thầy A Thị Thuyết trông trang nghiêm làm sao! Mỗi cử chỉ đi, đứng của vị tì kheo ấy đều tỏ rõ oai nghi tế hạnh. Thoạt nhìn thấy, Xá Lợi Phất bỗng cảm thấy tâm hồn rúng động. Thật kinh ngạc, thật kì lạ, không thể tả được! Không dằn được thắc mắc Xá Lợi Phất liền bước đến trước mặt A Thị Thuyết, chào hỏi một cách cung kính:
- Xin lỗi ngài cho tôi hỏi thăm, ngài tên là gì và đang cư ngụ tại đâu?
Thầy A Thị Thuyết trả lời:
- Xin cám ơn ngài đã hỏi thăm. Tôi tên là A Thị Thuyết đang cư ngụ tại tu viện Trúc Lâm (Venevana - Veluvana) ở phía ngoài kinh thành cách đây không xa lắm. (Có thuyết nói rằng, lúc Xá Lợi Phất gặp đại đức A Thị Thuyết thì tu viện Trúc Lâm chưa được xây cất; đức Phật và chúng tăng đang cư trú trong một khu rừng ở ngoại ô phía Nam thành Vương Xá - Chú thích của người dịch).
- Bậc tôn sư của ngài là ai? Và thường dạy ngài những đạo lí gì?
- Thầy tôì là người thuộc dòng họ Thích Ca, người ta thường gọi Người là Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài thường dạy cho chúng tôi về chân lí của vũ trụ và nhân sinh, mà kẻ trí óc cạn cợt như tôi thì không thể nào hoàn toàn lãnh hội hết được. Giáo lí Thầy tôi thường giảng dạy mà tôi ghi nhớ nhiều nhất là như vầy:
“Các pháp do nhân duyên mà sinh,
Và cũng lại do nhân duyên mà diệt”.
Và Người còn dạy:
“Tất cả các hành nghiệp đều là vô thường,
Đều là pháp sinh diệt.
Và một khi chấm dứt được sự sinh diệt,
Thì có được sự an lạc trong cảnh giới niết bàn tịch tịnh”.
Thật tôi không biết diễn tả thế nào để nói lên được lòng cảm kích của chúng tôi đối với những lời giáo huấn của Thầy chúng tôi!
Xá Lợi Phất cảm thấy như trời long đất lở khi vừa nghe được danh xưng “đức Phật” cùng giáo pháp của Ngài do từ miệng thầy A Thị Thuyết nói ra! Như ánh sáng chói lòa của mặt trời chiếu ngay trước mắt, bao nhiêu đám mây nghi ngờ về các vấn đề vũ trụ nhân sinh tích tụ từ trước đến nay bỗng dưng đều được quét sạch. Hai người đi với nhau thêm một quãng đường để đàm đạo. Đi bên cạnh vị tì kheo vừa mới gặp lần đầu mà Xá Lợi Phất cảm thấy như là bạn tâm giao đã lâu đời. Sau đó, Xá Lợi Phất xin cáo từ, và hứa với A Thị Thuyết thế nào cũng sớm đến tu viện để xin yết kiến đức Phật.
Xá Lợi Phất bương bả trở về học viện. Mục Kiền Liên xem thấy thần sắc Xá Lợi Phất sao mà khác thường, nét vui mừng hớn hở lộ ra trên mặt bạn hôm nay thật chưa từng thấy bao giờ! Bèn hỏi dò:
-Xá Lợi Phất! Sao? Có việc gì hứng thú lắm mà hôm nay trông bạn vui vẻ quá vậy?
- Mục Kiền Liên! Tôi mừng quá! Trong đời, đây là lần đầu tiên tôi thấy cao hứng như vậy! Này, tôi nói cho bạn biết nhé, tôi đã tìm thấy bậc tôn sư của chúng mình rồi! ...
Mục Kiền Liên trố mắt:
- Này, đừng nói như vậy, trên đời này lại còn ai có thể làm thầy chúng ta nữa chứ!
- Có chớ, có! Đó là đức Phật! Tôi xin nhắc lại, đó là đức Phật!
Rồi Xá Lợi Phất đem tất cả những gì đã nghe được từ thầy A Thị Thuyết về đức Phật và giáo pháp của Ngài, nói lại cho Mục Kiền Liên nghe. Hai người bạn, một người thuật và một người nghe, trong giây phhút quí báu ấy, đều vô cùng vui sướng, cảm động đến nỗi nước mắt chảy ràn rụa.
Pháp “nhân duyên”, người thường nghe đến thì không hiểu là gì, nhưng khi lọt vào tai của một người có trí tuệ và đang tìm cầu chân lí như Xá Lợi Phất thì khác hẳn. Ông cảm thấy như công phu tu học của mình trong bao nhiêu năm qua đều trở thành rỗng tuếch! Điều đó không sai, bởi vì, chỉ có người nào thấy rõ được “nhân duyên” thì mới thấy rõ được Phật pháp.
Liền ngày hôm sau, Xá Lợi Phất đã cùng Mục Kiền Liên, dẫn theo hai trăm đồ chúng của họ, cùng đến tu viện Trúc Lâm xin xuất gia theo Phật. Đức Phật rất hoan hỉ, vì biết rằng, từ ngày thành đạo, đến nay mới có được hai người đệ tử đích thực có khả năng, có thể tiếp thọ chân lí do mình truyền đạt; trong khi đó thì Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cũng biết chắc chắn rằng, cho đến hôm nay mình mới đích thực có được bậc Thầy chân chính!
3.- GIÁM ĐỐC CÔNG TRƯỜNG XÂY CẤT TU VIỆN KÌ VIÊN:
Sau khi Xá Lợi Phất xuất gia theo Phật thì uy tín của tăng đoàn mạnh mẽ thêm lên. Tôn giả rất được Phật tin cẩn. Tôn giả đã là người đầu tiên được Ngài giao cho sứ mạng lên miền Bắc để giáo hoá, nhân tiện quản đốc công trình xây cất tu viện Kì Viên (Jetavana).
Nhắc lại, trong hai năm đầu sau ngày đức Phật thành đạo, công việc hoằng hóa của đức Phật chỉ mới phát triển ở khu vực phía Nam sông Hằng trong phạm vi các vương quốc Ca Thi (Kasi) và Ma Kiệt Đà. Lúc bấy giờ, ở kinh thành Xá Vệ (Sravasti - Savatthi) của vương quốc Kiều Tát La (Kosala), thuộc miền Bắc Ấn Độ, có một vị trưởng giả tên là Tu Đạt (Sudatta). Nhân duyên cơ ngộ, một hôm nhân xuống Vương Xá thăm người thân mà được diện kiến đức Phật. Vì lòng ngưỡng mộ, ông đã xin qui y Tam Bảo và thỉnh nguyện Phật cho phép ông được xây cất một ngôi tu viện ở kinh thành Xá Vệ - quê hương ông - để cúng dường Phật và tăng đoàn làm cơ sở tu học và hoằng pháp ở phương Bắc.
Sau khi dùng “vàng ròng trải đất”, mua được khu vườn cây của thái tử Kì Đà (Jeta) tại thành Xá Vệ, trưởng giả Tu Đạt liền trở lại Vương Xá xin Phật cho một vị tì kheo lên đó để trông coi công việc xây cất tu viện. Phật pháp đối với dân chúng Xá Vệ thật là mới mẻ. Nơi đó lại có đông đảo ngoại đạo hoạt động; cho nên người được cử lên đó không những phải đủ sức quán xuyến công việc xây cất tu viện, mà còn phải có đủ khả năng hàng phục ngoại đạo. Vì thấy rõ điều đó, đức Phật đã giao nhiệm vụ ấy cho Xá Lợi Phất, và tôn giả đã cùng với Tu Đạt lên đường đi về phương Bắc ...
Đúng như đức Phật đã lượng định trước, công việc xây cất được khởi công không lâu thì ma nạn liền đến. Vì lòng đố kị, vì lo sợ Phật giáo bành trướng, rất đông giáo sĩ ngoại đạo đã cùng đến yêu cầu trưởng giả Tu Đạt hủy bỏ ý định xây tu viện để cúng dường Phật; không những thế, họ còn bảo Tu Đạt không được tin theo đức Phật nữa. Nhưng trưởng giả vốn đã đặt niềm tin sâu sắc nơi đức Phật rồi, thì dù cho ngoại đạo muốn nói năng thế nào đi nữa, ông cũng không đổi ý. Quí vị giáo sĩ ngoại đạo bèn thay đổi kế hoạch. Họ thách tôn giả Xá Lợi Phất công khai tranh luận với họ; vì họ tin rằng, với cách này, chắc chắn họ sẽ đánh bại được Xá Lợi Phất để cho Tu Đạt sáng mắt ra mà tỉnh ngộ. Khi biết được tin này, trưởng giả lo sợ vô cùng. Ông nghĩ rằng rằng, một mình tôn giả Xá Lợi Phất thì làm sao có thể thắng được số giáo sĩ ngoại đạo đông đảo như vậy! Ông bèn đến yết kiến tôn giả để tỏ lộ tâm trạng lo lắng của mình; nhưng khi nghe điều ấy, tôn giả đã không chút gì tư lự, lại còn tỏ ra hết sức vui mừng, vì đối với tôn giả, đây mới chính là một cơ hội thật tốt để hoằng dương giáo pháp.
Ngày giờ và địa điểm mở cuộc tranh luận đã được ước định. Bên phía ngoại đạo cử ra vài mươi vị luận sư để đối chọi với chỉ một mình tôn giả Xá Lợi Phất.
Nên biết rằng, trong cuộc tranh luận này, về số lượng, tuy đại diện đức Phật chỉ có một mình tôn giả Xá Lợi Phất, nhưng trên thực lực thì một Xá Lợi Phất ấy cũng đủ để đánh bại hàng ngàn, hàng vạn các vị luận sư ngoại đạo. Tôn giả là một vị đệ tử ít có ai sánh kịp trong số các đệ tử của Phật. Lại nữa, chúng ta hẳn còn nhớ, tôn giả vốn xuất thân từ một gia đình Bà la môn, mà tổ phụ và thân phụ đều là những bậc học giả, luận sư lỗi lạc trong giới Bà la môn. Ngay từ lúc nhỏ, tôn giả đã hưởng thụ được trọn vẹn cái di sản tinh thần đó của ông, cha, đã từng tinh thông mọi điển tích ngoại đạo; lớn lên lại gặp cơ duyên xuất gia theo Phật và đã chứng quả thánh, thì còn chọn ai hơn được tôn giả để đối phó với ngoại đạo trong trường hợp này! Cho nên, không cần nói chúng ta cũng biết được rằng, tôn giả Xá Lợi Phất đã thắng quí vị luận sư ngoại đạo trong cuộc thử thách này. Có điều đáng nói, sau cuộc tranh luận công khai ấy, quí vị giáo sĩ ngoại đạo đã thấy rõ được chân lí, phá bỏ kiến chấp, đồng lòng xin tôn giả Xá Lợi Phất giới thiệu họ được gặp Phật và qui y theo Phật tu học. Cũng nhân cơ hội này mà rất đông đảo quần chúng được biết đến Phật pháp và đều xin qui y Tam Bảo. Riêng trưởng giả Tu Đạt thì vui mừng hớn hở, càng khâm phục tôn giả Xá Lợi Phất, ông lại càng cảm kích oai đức của Phật. Lúc đó, tuy đức Phật vẫn còn đang hành hóa ở phương Nam, mà ánh sánh chân lí đã rọi chiếu đến phương Bắc.
Công trình xây cất tu viện Kì Viên được tiến hành rất nhanh chóng. Theo đồ án do tôn giả Xá Lợi Phất thiết kế, tu viện gồm có mười sáu gian nhà rộng lớn dùng cho những sinh hoạt tập thể như giảng đường, hội trường; sáu mươi gian nhà nhỏ dùng làm phòng ngủ, phòng tĩnh dưỡng, phòng rửa mặt, kho chứa vật dụng v.v...; ngoài ra còn có các sân vận động, sân tắm, ao nước, v.v...
Một hôm, khi tu viện xây cất sắp xong, tôn giả chỉ lên hư không nói với Tu Đạt:
- Trưởng giả Tu Đạt! Hãy nhìn kìa! Trên không trung hiện ra những gì, ông thấy không?
Tu Đạt lấy làm lạ đáp:
- Thưa tôn giả, con có thấy gì đâu!
- À phải rồi, nếu dùng nhhục nhãn thì không thể thấy được những cảnh này đâu. Bây giờ ông hãy nương vào thiên nhãn của tôi mà nhìn lại một lần nữa nhé!
- Thưa tôn giả, con đã thấy rồi. Con thấy có rất nhiều điện đẹp đẽ, trang nghiêm. Tu Đạt rất làm sung sướng nói với Xá Lợi Phất như vậy.
- Đó là cung điện ở cõi trời Lục Dục, để dành cho ông đấy. Ở đây ông xây tu viện để cúng dường đức Phật dùng làm cơ sở hoằng pháp; dù tu viện chưa hoàn tất, nhưng cung điện dành cho ông ở cõi trời Lục Dục thì đã hoàn thành rồi.
- Thưa tôn giả, cung điện của cõi trời Lục Dục nhiều như thế thì về sau con nên ở cung trời nào tốt hơn?
- Ở cung trời Đao Lợi thì mạng sống rất dài, lại có ý thức và siêng năng trong việc tu hành Phật đạo, cho nên rất ít khi bị đọa lạc.
- Vậy thì trong đời tương lai con nguyện được sinh về cung trời Đao Lợi.
Trong lúc Tu Đạt nói lời ấy thì bao nhiêu cung điện khác dần dần biến mất, chỉ còn lại cung trời Đao Lợi là sáng rỡ huy hoàng. Tu Đạt thấy thế thì vô cùng vui mừng. Đó là việc có một không hai trong đời ông từ trước đến giờ.
4.- TÂM ĐẠI THỪA KHÔNG THỐI CHUYỂN:
Nói đến việc trưởng giả Tu Đạt, nhân xây cất tu viện cúng dường Phật mà có thể nương vào thiên nhãn của tôn giả Xá Lợi Phất để nhìn thấy được đến các cung trời, tưởng cũng nên nhắc lại trường hợp đặc biệt của cặp mắt Xá Lợi Phất trong một câu chuyện tiền thân của tôn giả cách sáu mươi tiểu kiếp về trước, khi tôn giả đang tu hạnh bồ tát.
Thuở đó, trong khi phát tâm tu hạnh bồ tát, Xá Lợi Phất đã rất chú trọng đến hạnh bố thí. Để thực hiện hạnh bố thí, Xá Lợi Phất không những phát nguyện giúp cho mọi người tài vật, nhà cửa, ruộng vườn, mà thậm chí còn hi sinh đến cả thân thể và tính mạng nữa. Tâm nguyện chân thành của Xá Lợi Phất lúc đó đã làm cảm động đến cả trời đất. Bấy giờ có một vị trời muốn thử tâm đạo của Xá Lợi Phất bèn hóa hiện làm một gã thanh niên tuổi chừng hai mươi, đứng bên đường chờ Xá Lợi Phất đi ngang qua. Khi Xá Lợi Phất vừa tới trước mặt thì gã thanh niên liền khóc lóc kêu gào thảm thiết. Xá Lợi Phất thấy thế thì động mối thương tâm, bèn an ủi hỏi han:
- Này cậu! Có chuyện gì mà cậu đứng đây khóc lóc thảm thiết quá vậy?
- Xin ông đừng hỏi làm gì! Tôi dù có nói chuyện này với ông cũng chỉ vô ích mà thôi.
- Cậu ạ! Tôi là kẻ tu hành, có tâm nguyện giúp đỡ những ai bị đau khổ. Chỉ cần cậu nói rõ cái hoàn cảnh bất hạnh của cậu, nếu khả năng tôi có thể làm được gì để giúp đỡ thì tôi tức khắc làm cậu vừa ý ngay.
- Tôi biết chắc chắn là ông không thể giúp gì được cho tôi đâu! Tài sản ở thế gian tôi không hề thiếu thốn, chỉ vì mẹ tôi bịnh quá nặng, không thể tìm thuốc chữa mà tôi đau đớn đến phải khóc lóc thảm thiết như vầy. Theo lời thầy thuốc bảo thì tôi phải đi tìm cho được một con mắt sống của một người tu hành đem về làm thuốc thì chứng bệnh hiểm nghèo của mẹ tôi mới chữa khỏi được. Tôi vừa đi vừa nghĩ, đến như con mắt sống của một người bình thường còn chưa dễ kiếm, huống hồ là của một người tu hành! Nghĩ đến điều khó khăn này, rồi nghĩ đến mẹ bịnh nằm trên giường, vừa rên siết vừa trông ngóng con mau đem con mắt về làm thuốc, mà lòng tôi đau như cắt ...
- Cậu ạ! Không có gì khó khăn cả. Vừa rồi tôi đã nói với cậu về cái tâm nguyện của tôi. Tôi chính là một kẻ tu hành, và mắt của tôi đúng là mắt của một người tu hành. Tôi xin biếu cậu một con mắt của tôi để cậu đem về làm thuốc chữa bịnh cho bà cụ.
Gã thanh niên vui mừng nhảy nhót:
- Thật sao! Ông hoan hỉ cho tôi một con mắt sao?
- Bao nhiêu tài sản tôi đã đem bố thí cho người hết rồi. Tôi đang muốn tiến thêm một bước nữa trên đường tu hạnh bồ tát là bố thí đến thân thể tôi, nhưng khổ nỗi là chưa có ai cần tới. Hôm nay gặp được cậu tôi thật thấy mãn nguyện. Tôi vui sướng lắm và cảm ơn cậu vô cùng. Vậy cậu hãy dùng cách nào đó để lấy con mắt của tôi đi!
Nhưng gã thanh niên không chịu, nói:
- Không được đâu,! Làm như vậy thì có vẻ như tôi cưỡng đoạt con mắt của ông. Tôi không dám. Ông đã tự nguyện cho tôi thì xin ông hãy tự móc nó ra trao cho tôi.
Xá Lợi Phất cho lời nói của gã thanh niên là có lí, bèn hạ quyết tâm, nén đau đớn, đưa tay móc con mắt bên trái ra, trao tận tay gã, và nói:
- Xin đa tạ cậu đã giúp tôi hoàn thành tâm nguyện. Cậy hãy đem con mắt này về nhà đi!
Gã thanh niên đưa tay tiếp lấy con mắt do Xá Lợi Phất trao cho, nhưng bỗng hét to:
- Thật là vô dụng! Tôi đâu có bảo ông móc con mắt bên trái làm gì! Bịnh của mẹ tôi, theo thầy thuốc bảo, phải dùng con mắt bên phải mới được!
Nghe thế, Xá Lợi Phất lại cho mình quả là đồ vô dụng. Ông tự trách mình sao đã không hỏi trước cậu ta cho cẩn thận. Giờ thì đã lỡ rồi. Phát tâm thì phải cho trọn vẹn; cứu người thì phải hết lòng. Thế thì ta phải móc luôn con mắt bên phải cho cậu ta mới được! Ông bèn an nủi gã thanh niên:
- Cậu đừng giận! Vừa rồi vì tôi quá hấp tấp mà đã quên hỏi cậu trước cho rõ ràng. Tôi đã biết lỗi. Con mắt bên phải của tôi vẫn còn đây, để tôi móc ra đền lại cho cậu đem về làm thuốc chữa bịnh cho mẹ cậu.
Nói xong, Xá Lợi Phất lại cố nén đau đớn, móc luôn con mắt bên phải trao cho gã thanh niên. Tiếp lấy con mắt, không một lời cám ơn, gã lại còn đưa con mắt lên mũi ngửi ngửi, rồi ném mạnh xuống đất và mắng:
- Ông mà là người tu hành gì! Con mắt của ông sao mà hôi thúi khó ngửi quá thì làm sao có thể làm thuốc chữa bịnh cho mẹ tôi được!
Mắng xong, gã lại dùng chân đạp lên con mắt của Xá Lợi Phất. Lúc đó tuy không còn trông thấy gì được nữa, nhưng tai Xá Lợi Phất vẫn nghe biết rõ mọi chuyện. Ông đã nghe gã thanhh niên kia mắng ông. Ông đã nghe tiếng chân gã dẫm đạp lên con mắt của ông đã cho gã. Ông than thầm: “Chúng sinh thật khó độ; tâm bồ tát thật khó phát! Thôi ta cũng không nên vọng tưởng về việc tiến tu hạnh đại thừa nữa làm gì, mà hãy cứ theo con đường tự lợi cũ là hơn”. Vừa nghĩ như vậy thì bỗng trên hư không xuất hiện rất nhiều thiên chúng, đồng thanh nói với Xá Lợi Phất rằng:
- Hỡi vị hành giả kia! Người không nên thối chí như vậy. Gã thanh niên vừa rồi chính là một vị trời hóa hiện để thử đạo tâm của người đấy thôi. Người hãy giữ vững tâm nguyện và hãy tinh tấn dõng mãnh hơn nữa trên đường tu hành!
Nghe mấy lời ấy, Xá Lợi Phất lại tự lấy làm hổ thẹn, tâm bồ tát lại phát sinh mạnh mẽ. Trải qua sáu mươi tiểu kiếp, Xá Lợi Phất vẫn không thối chuyển trên đường tu học, cho đến hôm nay được gặp Phật là liền chứng thánh quả, có được thiên nhãn thông.
5.- NHẬN THỨC ĂN KHÔNG TRONG SẠCH:
Xá Lợi Phất xứng đáng là vị đệ tử hàng đầu của đức Phật. Tôn giả là bậc có trí tuệ hơn người, thần lực trội chúng, mà đối với đức Phật thì trăm điều đều y thuận, chưa từng làm trái lời dạy nào của Ngài. Bởi vậy, trong tất cả đệ tử, tôn giả là người được được tín nhiệm nhất.
Trong lần đầu tiên trở về thăm quê hương Ca Tì La Vệ (Kapilavastu - Kapilavatthu) sau ngày thành đạo, đức Phật đã cho La Hầu La (Rahula) xuất gia theo tăng đoàn tu học. Chính Xá Lợi Phất đã truyền giới sa di cho La Hầu La. Đức Phật cũng đã bảo La Hầu La tôn Xá Lợi Phất làm thầy, phải luôn luôn kề cận để được tôn giả dạy dỗ cho.
Một hôm sau khi La Hầu La theo Xá Lợi Phất đi khất thực trở về, đức Phật trông thấy nét mặt La Hầu La không được vui. Sau giờ ngọ trai, Ngài bèn gọi La Hầu La đến gần hỏi xem trong lòng có gì không vừa ý. La Hầu La cúi đầu thưa:
- Bạch Thế Tôn! Thân phận con chỉ là một chú tiểu, lẽ ra thì không được nói lỗi lầm của bậc trưởng thượng, nhưng nếu không nói thì không ai hiểu được hoàn cảnh của bọn sa di chúng con.
- Ừ, có việc gì con cứ việc nói ra đi!
- Bạch Thế Tôn! Khi các bậc trưởng thượng dẫn chúng con đi thọ thực, quí vị thí chủ cúng dường cho quí ngài toàn thức ăn hảo hạng; còn với bọn sa di chúng con thì họ chỉ cho toàn những thức ăn quá tệ. Con nghĩ, thân thể của mọi người đều cần thức ăn giống nhau, đâu có phân biệt tuổi tác hay giới hạnh. Các bậc trưởng thượng của chúng con chỉ biết thọ dụng sự cúng dường của thí chủ mà không có lòng thương chiếu cố đến chúng con, đã để cho quí vị thí chủ sinh tâm phân biệt trong khi cúng dường.
- Chỉ một việc nhỏ như vậy mà con cũng không nhẫn được hay sao?
- Xin đức Thế Tôn thương xót mà không trách mắng con. Bạch Thế Tôn, ăn uống có đủ chất dinh dưỡng thì thân thể mới khỏe mạnh, khí lực mới tăng trưởng do đó mà tâm mới an lạc để tinh tấn tu tập. Thực sự thì chúng con ngày nào cũng chỉ ăn toàn các thức ăn thiếu dinh dưỡng, cho nên thân thể ngày càng mệt mỏi, khiến cho tâm ý ít khi được chuyên nhất để hành trì hữu hiệu.
Đức Phật cũng thấy những điều La Hầu La nói là đúng sự thật, nhưng vẫn dạy:
- Này La Hầu La! Con rời bỏ hoàng cung đi theo tăng đoàn có phải là vì để nhận sự cúng dường chăng?
- Dạ không phải như vậy, bạch Thế Tôn! Con gia nhập tăng đoàn là để học đạo tu hành.
- Vậy thì con đâu có cần gì phải nói về chuyện ấy. Nếu chỉ vì việc học đạo tu hành thì dù chúng ta có được thí chủ cúng dường chỉ một hột mè hay một hột bắp cũng vẫn là đầy đủ. Thôi con hãy lui đi, hãy lấy việc tu hành làm trọng, đừng để tâm đến chuyện ăn uống nữa!
Tuy đức Phật dạy La Hầu La như vậy, nhưng Ngài cũng thấy việc thí chủ cúng dường tăng chúng với tâm phân biệt là không phải. Bởi vậy, sau khi La Hầu La đi rồi, Ngài lại cho mời Xá Lợi Phất đến. Ngài dạy:
- Thầy Xá Lợi Phất! Hôm nay thầy đã nhận được các thức ăn không trong sạch, thầy có biết không?
Tôn giả nghe Phật bảo thế thì thất kinh, bèn chạy ra ngoài, đem bao nhiêu thức ăn vừa ăn xong cho ói ra hết, rồi trở vào thưa với Phật:
- Bạch Thế Tôn! Từ khi theo Thế Tôn xuất gia đến giờ, con luôn luôn y theo cách thức khất thực do Thế Tôn chỉ dạy mà hành trì . Con chưa bao giờ trái lời Thế Tôn để xin những thứ đồ ăn không trong sạch.
Tâm ý của tôn giả thế nào thì đức Phật đã thấy rõ, cho nên Ngài giải thích:
- Thầy Xá Lợi Phất! Như Lai biết rất rõ là thầy luôn luôn hành trì pháp chế khất thực thật đúng cách, nhưng đối với tinh thần hòa ái trong nếp sống tăng đoàn thì mình không nên chỉ biết có mình. Pháp chế luôn luôn phải bình đẳng, mà lợi lộc thì cũng phải chia sẻ đồng đều; hơn nữa, là bậc trưởng thượng trong chúng thì lúc nào cũng nên thương yêu và quan tâm săn sóc các thầy tì kheo nhỏ tuổi cũng như các chú sa di chưa trưởng thành! Một điều điển hình là trong lúc đi khất thực, quí thầy nên để tâm đến họ.
Nghe Phật dạy, Xá Lợi Phất đã hiểu rõ sự việc. Tôn giả rất cảm kích đối với lòng từ ái của Phật đối với các đệ tử, nguyện tiếp nhận, ghi nhớ và hành trì lời Phật dạy.
6.- KẺ PHẢN BỘI PHẢI SỢ SỆT:
Trong số đệ tử của Phật có một vị tì kheo tên là Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), vốn là em họ của Phật. Khoảng mười năm sau khi theo Phật xuất gia, ông bị ma nghiệp làm mê muội tâm linh, đã phản bội đức Phật và tách rời tăng đoàn của Phật.
Một hôm sau giờ ngọ trai, đức Phật và chúng tăng cùng nghỉ ngơi trong giảng đường, bất ngờ, Đề Bà Đạt Đa đến yêu cầu Phật trao quyền lãnh đạo giáo đoàn lại cho ông ta. Đức Phật không chấp thuận. Ông bèn la hét giận dữ, nhưng ngài vẫn yên lặng. Ông lại kêu gọi chúng tăng hãy đi theo ông ta. Lúc ấy, em của ông, tôn giả A Nan (Ananda), đứg dậy tiến đến trước mặt ông nói:
- Xin sư huynh đừng có vọng tưởng. Vì sư huynh là bậc huynh trưởng của tôi, nên khi nghĩ đến những tội lỗi nặng nề sư huynh đã tạo ra, nghĩ đến sự đọa lạc mà sư huynh phải chịu trong tương lai, tôi cảm thấy vô cùng xót xa. Đức Thế Tôn là bậc đại từ bi, một người như sư huynh thì đâu thể nào so sánh được. Nếu hôm nay mà có hai sư huynh Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên ở đây thì nhất định là sư huynh không thể buông lung như thế được ...
Sau đó, với sự ủng hộ nhiệt tình của vua A Xà Thế (Ajatasatru - Ajatasattu), Đề Bà Đạt Đa đã dùng nhiều cách như uy hiếp, hoặc đem lợi lộc dụ dỗ, để níu kéo một số đệ tử của Phật đi theo ông; đó là những vị tì kheo mới xuất gia, nhẹ dạ, lòng tin chưa vững chắc, thấy có lợi lộc và uy thế của vua là đi theo.
Một hôm, nhân lúc các tì kheo đệ tử của Phật bỏ theo Đề Bà Đạt Đa và các đệ tử riêng của Đề Bà Đạt Đa nhóm họp tại một nơi nọ, Xá Lợi Phất bỗng xuất hiện. Với một phong cách đầy uy lực và trang nghiêm, tôn giả nói với họ:
- Thưa quí huynh đệ! Tôi có mặt ở đây hôm nay cốt xin hỏi quí huynh đệ một câu: Quí thầy xuất gia tu hành là chính vì để thọ nhận sự cúng dường hay là vì sự tu học?
Tất cả đồng trả lời:
- Chỉ vì sự tu học, vì muốn thoát khỏi biển khổ sinh tử.
- Nếu đã như vậy thì tại sao qui huynh đệ không đi theo con đường chân chánh do đức Phật chỉ dạy, mà lại đem cái lòng tin thuần khiết, tôn quí của mình dâng cho kẻ hoàn toàn bị dao động bởi lợi dưỡng vật chất? Xin quí huynh đệ hãy tỉnh ngộ?
Trong khi tôn giả nói những lời ấy thì từ trên thân thể tôn giả xuất hiện muôn đạo hào quang sáng rỡ. Trong hào quang ấy lại hiện ra từ dung của đức Phật, khiến cho tất cả chúng tì kheo lạc lối ấy bỗng nhiên đều quì cả xuống và nói lên lời sám hối. Tôn giả bèn đưa tất cả trở về lại với tăng đoàn.
Đem lại sự hòa hợp cho tăng đoàn là một công lao vô cùng to lớn của tôn giả Xá Lợi Phất. Đức Phật hết sức khen ngợi. Riêng Đề Bà Đạt Đa, ông không sợ đức Phật mà lại rất sợ Xá Lợi Phất.
Về sau, vì tội nghiệp quá thâm trọng nên Đề Bà Đạt Đa phải đọa vào địa ngục. Vua A Xà Thế thì sớm biết ăn năn hối lỗi nên đã được cứu độ. Còn tôn giả Xá Lợi Phất thì càng được tăng đoàn kính trọng.
7.- TIẾP NHẬN MỘT PHÁP MÔN CỨU ĐỘ CHÚNG SINH:
Một lúc nọ đức Phật ngự tại tu viện Kì Viên. Vì thương xót chúng sinh mãi phiêu bạt trong biển khổ sinh tử không nơi nương tựa, luân hồi trong sáu nẻo mà không biết được một nơi nào có an lạc hạnh phúc chân thật để quay về, cho nên Ngài muốn nói một pháp môn để cứu độ; đó là giới thiệu cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Đà (Amita) và cách thức rất dễ hành trì để được vãng sinh về cõi ấy, nhưng lại sợ những người có căn cơ thấp kém, tin không tới mà không chịu tiếp nhận, Ngài bèn quyết định chọn tôn giả Xá Lợi Phất làm đối tượng nói pháp. Trong số thính chúng lúc bấy giờ cũng gồm đủ những người có các căn cao, vừa, thấp, nhưng vì Ngài biết rõ rằng, chỉ có vị đại trí tuệ ấy mới biết được cái cảnh giới thật thanh tịnh, thật trang nghiêm của cõi Cực Lạc, và mới có được lòng tin chân thật nơi đức Phật A Di Đà. Ngài dạy:
- Này Xá Lợi Phất! Cách thế giới của chúng ta thật xa về phương Tây, có một thế giới tên là Cực Lạc. Vị giáo chủ thế giới ấy là đức Phật A Di Đà, hiện tại đang nói pháp. Thầy Xá Lợi Phất! Vì sao cõi đó tên là Cực Lạc? Bởi vì cõi đó cái gì cũng viên mãn, ở đâu cũng an lạc, không giống như thế giới Ta Bà có quá nhiều khiếm khuyết, quá nhiều thống khổ của chúng ta ở đây. Ở cõi nước ấy, nói về thiên nhiên thì đất đai bằng phẳng. sự vật dồi dào, trong sạch, ngay thẳng, đẹp đẽ; nói về nhân quần xã hội thì mọi thứ tiện ích và nhu yếu cho đời sống con người đều sẵn có đầy đủ, và người ta chỉ dùng đến khi nào cần thiết. Khắp cõi nước ấy, chỗ nào cũng như là đô thị với những kiến trúc đường hoàng, tề chỉnh, chỗ nào cũng là vườn hoa tươi đẹp muôn màu. Thầy Xá Lợi Phất! Chỉ cấn nhất tâm trì niệm danh hiệu đức Phật A Di Đa và siêng năng tu học ba mươi bảy phẩm trợ đạo, vun trồng phước đức thì trong tương lai nhất định sẽ được đức Phật A Di Đà tiếp dẫn về thế giới ấy của Ngài. Chúng sinh ở thế giới Ta Bà này, nếu muốn thoát khỏi những khổ não của sinh tử luân hồi thì chỉ cần phát nguyện cầu được vãng sinh về thế giới đó. Như Lai đã từng bảo A Nan lễ bái đức Phật A Di Đà và thầy ấy cũng đã từng thấy được từ quang của Ngài. Đại chúng hãy tin tưởng sâu sắc vào pháp môn khó tin mà Như Lai vừa nói ra; đó mới xác thật là con đường được cứu độ của chúng sinh.
Tôn giả Xá Lợi Phất hoàn toàn không có chút gì hoài nghi về những điều đức Phật vừa nói. Tôn giả và toàn thể đại chúng đều tin tưởng sâu sắc nơi pháp môn này.
- Tôn Giả Đại Ca Diếp (Đầu Đà Đệ Nhất)
- Tôn Giả Ca Chiên Diên ( Luận Sư Đệ Nhất)
- Tôn Giả Tu Bồ Đề (Giải Không Đệ Nhất)
- Tôn Giả Phú Lâu Na (Giảng Sư Đệ Nhất)
- Tôn Giả Mục Kiền Liên (Thần Thông Đệ Nhất)
- Thiền Sư Chân Nguyên
- A Dục, Một Vị Vua Phât Tử
- Vị Đại Sư Xấu Xí Thiên Tài Lừng Lẫy Trung Quốc
- Đức Phật Và Angulimala
- Kết thúc buồn cho mối tình si với hòa thượng
- Lịch Sử Kết Tập Kinh Luật
- Sự Hình Thành Của A Tỳ Ðạt Ma