Vĩnh Minh Tự Viện

Saturday, Nov 23rd

Last update09:58:49 AM GMT

Đường dẫn hiện tại Phật Học Lịch Sử Tôn Giả La Hầu La (Mật Hạnh Đệ Nhất)

Tôn Giả La Hầu La (Mật Hạnh Đệ Nhất)

Email In PDF
Mục lục bài viết
Tôn Giả La Hầu La (Mật Hạnh Đệ Nhất)
Tôn Giả La Hầu La (Mật Hạnh Đệ Nhất) Phần II
Tất cả các trang

Tôn Giả La Hầu La (Mật Hạnh Đệ Nhất) Phần I

1.- CẬU BÉ HẠNH PHÚC NHẤT THẾ GIAN:

Khi chưa xuất gia, Phật vốn là vị thái tử của thành Ca Tì La Vệ (Kapilavastu - Kapilavatthu). Thái tử đã cưới công chúa nước Câu Lị (Koliya) là Da Du Đà La (Yasodara) làm vợ. Thái tử và công chúa đồng tuổi. Năm mười chín tuổi, công chúa sinh hoàng tôn La Hầu La. Thái tử vui mừng lắm, nhưng không phải là niềm vui thông thường của người đời khi sinh con. Nguyên vì trước đó, đã mấy lần thái tử xin phép phụ vương Tịnh Phạn (Suddhodana) đi xuất gia học đạo, đều không được chấp thuận, nhưng đức vua có hứa, nếu khi nào thái tử sinh được vương tôn thì ngài sẽ cho phép xuất gia. Bây giờ thì vương tôn La Hầu La đã ra đời, nguyện vọng xuất gia của thái tử chắc là thực hiện được; bởi vậy thái không vui mừng sao được!

Thái tử từ giã hoàng cung vào đêm Mồng Tám tháng Hai, bảy ngày sau khi La Hầu La chào đời. Đêm ấy, khi công chúa và La Hầu La đều đã ngủ say, thái tử nhìn hai mẹ con lần chót, rồi với ý chí cương quyết, chàng leo lên lưng ngựa trắng, rời khỏi hoàng thành đi xuất gia. Từ đó, La Hầu La phải sống những ngày thiếu vắng bàn tay nâng niu của người cha thương yêu độc nhất trên đời! Nhưng, thái tử đi xuất gia và rồi đã thành Phật; trước là thân phụ, bây giờ trở thành bậc đạo sư, dẫn dắt cho La Hầu La về sau chứng ngộ quả thánh. Đó mới chính là người cha cao cả nhất trên thế gian!

La Hầu La lớn dần trong sự yêu thương cùng cực của mẹ và ông bà nội. Câu lúc đó là vị vương tôn độc nhất, ngày ngày sống vô tư vô lự trong hoàng cung. Đến lúc bắt đầu có chút ít hiểu biết việc đời, cậu cũng cảm thấy thiếu vắng cha là điều đáng buồn, nhưng dù sao cậu vẫn còn có mẹ ở bên cạnh, và bà rất mực cưng chiều cậu. Bà chính là nguồn ánh sáng duy nhất của cậu, là niềm an ủi, là mái ấm chở che cho cậu. Trong khi đó, Da Du Đà La, từ ngày vắng bóng người chồng yêu quí, từ xuân sang hạ, đến thu rồi đông, một mình vò vỏ trong thâm cung vắng lặng, sống một ngày mà cảm thấy dài như cả năm, thì nguồn vui duy nhất của bà chính là La Hầu La! Hai mẹ con nương nhau mà sống qua năm tháng.

Có người nói, Da Du Đà La là người đàn bà bạc mệnh, còn La Hầu La là cậu bé đáng thương, nhưng đó chỉ là nói theo thói thường ở đời mà thôi. Sự thực ở đây, dù có bạc mệnh hay đáng thương thì cũng chỉ là một thời gian ngắn. Hơn nữa, có hi sinh lớn thì chắc chắn sẽ có thu hoạch lớn. Mà quả vậy, về sau được Phật hóa độ, công chúa xuất gia tu tập và đã chứng ngộ. La Hầu La cũng vậy, đã theo Phật xuất gia và chứng quả thánh. Công chúa chẳng phải là người phụ nữ vinh hạnh nhất đời đấy ư?! La Hầu La chẳng phải là cậu bé hạnh phúc tột cùng đấy ư?!

Khi từ giã hoàng cung, thái tử cũng muốn ôm La Hầu La vào một lần chót, nhưng vì sợ làm kinh động công chúa, lỡ như nàng thức giấc làm cản trở sự ra đi thì sao; cho nên chỉ nhìn và thầm bảo: “Đợi khi ta thành đạo rồi, sẽ trở về thăm con!” Phật xem tất cả chúng sinh đều như La Hầu La. Phật đã đem tình thương cho tất cả chúng sinh, thì ở vào hoàn cảnh của La Hầu La, cậu lại càng dễ dàng nhận được tình thương của Phật. Cho nên chúng ta chớ bảo La Hầu La thiếu vắng phụ thân từ thuở ấu thơ là rất đáng thương, trái lại phải thấy rằng, cậu bé ấy được làm con của Phật, được nuôi nấng trong chiếc nôi trời đất đầy ắp tình thương cao rộng, quả thật là cậu bé hạnh phúc nhất thế gian!

2.- ĐỨA CON KHÔNG BIẾT MẶT CHA:

Năm thứ ba sau ngày thành đạo, Phật từ nước Ma Kiệt Đà (Magadha) ở phương Nam trở về thăm cố hương là thành Ca Tì La ở phương Bắc. Trên từ vua Tịnh Phạn xuống đến mọi người trong dòng họ Thích Ca đều ra ngoài cổng hoàng thành nghênh đón Phật; ngoại trừ hai người: Da Du Dà La và La Hầu La. Công chúa nhủ thầm: “Người đi xuất gia, mình vì Người mà cam chịu nỗi buồn đau vắng vẻ; Người ở ngoài mặc y phục bạc màu, trong cung mình cũng ăn mặc giống Người; nghe nói Người tu khổ hạnh, mổi ngày chỉ ăn một bữa, mình cũng vội vàng học tập làm theo hạnh ấy. Mình đối với Người chân thành như vậy, có gì sơ xuất đâu! Nếu Người còn nghĩ đến mình thì tự nhiên Người sẽ vào đây thăm mình ...”

Đã mười năm không thấy mặt, giờ đây Da Du Đà La không muốn gặp Phật trước mặt mọi người, nghĩ ra cũng phải. Dĩ nhiên là trong lòng công chúa giờ phút ấy, cũng giống như mọi người, rất nao nức mong được gặp Phật, nhưng vì lễ giáo, vì tự trọng, bà đành phải nhẫn nại. Bà leo lên một tầng lầu cao ở trong cung và đến ngồi bên cửa sổ. Từ đó nhìn xuống cổng hoàng cung, bà có thể thấy rõ được cảnh tượng mọi người nghênh đón Phật. Ngay lúc ấy, cậu bé mười tuổi La Hầu La chạy đến bên bà, nói:

- Mẹ ơi! Ba con đã về! Bà nội (Kiều Đàm Di) bảo con thưa với mẹ như vậy.

Cậu bé hãy còn ngây thơ, đâu biết được những nỗi niềm thầm kín của mẹ trong giờ phút ấy như thế nào! Cậu chỉ thấy hôm nay trông mẹ sao có vẻ nghiêm trang đến phát sợ! Tuy nhiên cậu biết dù thế nào mẹ vẫn thương cậu rất mực, cho nên lại nũng nịu hỏi:

- Mẹ ơi, xem kìa! Ngoài cổng đông người quá, trong đó thế nào chẳng có ba con. Ba con ra sao hở mẹ?

Câu hỏi hồn nhiên phát ra từ miệng đứa con thơ dại càng làm cho lòng bà thấy thương cảm muôn phần, nhưng tâm tình của người lớn, trẻ con làm sao hiểu được! Đột nhiên, một tay bà bế La Hầu La lên, một chỉ xuống cổng hoàng cung, đôi mắt rưng rưng, giọng nói run run, bà bảo La Hầu La:

- Con xem kìa, trong đoàn sa môn kia, người đi đầu có dáng vẻ trang nghiêm nhất là ba con đó!

Cậu bé mở to cả hai mắt để nhìn. Một giọt nước mắt vừa rơi khỏi khóe mắt bà, rớt trên đầu La Hầu La, bà vội nắm tay con dắt về phòng riêng ...

Mười năm xa cách! Mười năm biệt tăm biệt tích! Mười năm như mây khói, như chiêm bao! Đây là lần đầu tiên bà vừa được thoáng trông thấy Phật. Lòng bà lúc đó như mặt nước ao bị ném xuống một hòn đá, sóng gợn lao xao, không còn phẳng lặng được nữa. Quán sát và thấy rõ tâm ý của bà và sau khi đã đáp lễ mọi người, Phật dẫn Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên vào nội cung thăm bà. Cuộc trùng phùng giữa một người là đức Phật đại giác và một người là vị hoàng phi xinh đẹp, đã làm cho mọi người chú ý. Trong một phút yên lặng, với ánh mắt trang nghiêm và đầy từ bi, Phật nhìn Da Du Đà La vừa cảm thông, vừa thương xót; còn Da Du Đà La thì nhìn Phật như yêu thương, như hờn dỗi, tâm hồn bấn loạn, trăm mối ngổn ngang ... Rồi bà bật khóc, Phật yên lặng đứng nhìn, để yên cho bà khóc. Khi cơn xúc động dã dần dần lắng dịu, bà mới chợt nhận ra rằng, giữa Phật và bà giờ đây đã có một đường mương ngăn cách. Bà lại nghĩ, Phật là Phật, đâu có chuyện Phật sẽ dùng lời êm ái, dịu ngọt của một người chồng để an ủi mình như thuở xưa! Bà liền lau khô nước mắt, đỡ La Hầu La cùng quì xuống trước Phật. Bấy giờ Phật mới nói với bà, thật chậm rãi, rõ ràng từng tiếng một:

- Để cho nàng phải chịu bao nỗi buồn đau, đó là sự thiếu sót của ta; nhưng ta đã xứng đáng với tất cả chúng sinh, giờ đây ta đã thành tựu được bản nguyện từ vô số kiếp. Xin nàng hãy vì ta mà vui vẻ lên!

Phật lại nhìn La Hầu La, từ ái vỗ về:

- Thật chóng quá, con đã lớn thế này rồi!

Phật có vẻ như thờ ơ, mà cũng có vẻ như rất dồi dào tình cảm. Lời nói của Phật, thái độ của Phật, đã làm cho hai vị tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên thật cảm động, tưởng chừng có thể khóc lên được. Còn cậu bé La Hầu La thì đang lúng ta lúng túng, chẳng biết kêu phụ thân mình bằng gì. Kêu là ba ư? Trông người nghiêm trang như ông thần, tiếng “ba” không thể lọt ra khỏi miệng được! Kêu là Phật ư? Chẳng biết có nên kêu như thế không! Nhưng La Hầu La quả thật thông minh, nhìn thấy có quá đông các vị sa môn theo chân Phật, cậu hiểu ra rằng, Phật bây giờ không phải là người cha riêng của một mình mình, mà là đấng cha lành chung của tất cả mọi người! Một cậu bé mười tuổi mà có sự thấy biết như vậy thì quả thật không phải là một cậu bé tầm thường, mà đã sẵn có nhiều căn lành.

3.- CHÚ SA DI ĐẦU TIÊN:

Trong thời gian Phật và tăng chúng ở lại hoàng cung, nơi đây tạm thời trở thành một tăng viện. Không khí hoàn toàn nghiêm tịnh, không có cung nga mĩ nữ, không có đàn ca múa hát, không có yến tiệc rượu chè, nhưng Phật đã không ở lại đây lâu, vì sợ rằng, nếu ở lại đây lâu, không khí hoàng cung sẽ ảnh hưởng đến nếp sống thiểu dục của tăng đoàn, rất dễ làm cho tăng chúng mất chánh niệm. Cho nên chỉ vài ngày sau, Phật đưa tăng chúng ra trú tại công viên Ni Câu Đà (Nyagrodha - Nigroda), ở ngoại ô thành Ca Tì La. Tuy trú tại vường Ni Câu Đà nhưng Phật vẫn thường vào hoàng thành để khất thực và bố giáo. Cậu bé La Hầu La dần dà cũng quen đi, không còn cái dáng vẻ sợ sệt nữa; có lúc đã nói với Phật một cách ngây thơ thật dễ thương:

- Bạch Phật! Con rất thích được ở chung hoài với Phật!

Câu nói ấy đã tỏ rõ được tình phụ tử thiêng liêng. Nếu không thì dễ gì mới thấy nhau trong thời gian ngắn mà đã khiến một đứa bé thốt được lời lẽ như vậy. Đức Phật cũng từ ái trả lời:

- Ừ! Con ạ, rồi cũng có ngày ta cho con được ở hoài bên cạnh ta.

Quả vậy, sau đó không lâu, La Hầu La đã được xuất gia theo Phật. Nguyên vì, Da Du Đà La vẫn một lòng tưởng nhớ Phật, nên thường tập cho La Hầu La dạn dĩ, hoạt bát; rồi một hôm bà bảo:

- Con hãy theo cha con mà xin gia tài! Cha con có thứ tài sản quí báu mà cả mẹ con mình chưa bao giờ trông thấy.

Trưa hôm ấy, Phật và chư tăng vào thành khất thực xong, lúc đang trên đường trở về vườn Ni Câu Đà thì La Hầu La chạy theo sau Phật, thỏ thẻ:

- Phật ơi! Xin cho con gia tài của Phật đi!

Da Du Đà La nhìn theo bóng dáng đứa con yêu thương duy nhất đang theo chân Phật khuất dần, rồi nghĩ đến việc La Hầu La có thể sắp xuất gia, lòng bà bỗng quặn thắt, nước mắt tuôn trào ...

Mà thật vậy, sau khi về đến vườn Ni Câu Đà, Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

- Cháu La Hầu La đang theo tôi xin tài sản. Tôi không muốn cho cháu thứ tài sản cũng như hạnh phúc tạm bợ, mà phải là thứ tài sản quí báu và hạnh phúc chân thật. Này Xá Lợi Phất! Tôi nhờ thầy thu nhận cho cháu xuất gia. Cháu sẽ là chú tiểu đầu tiên của giáo đoàn!

Phật nhờ tôn giả Mục Kiền Liên xuống tóc cho La Hầu La, rồi bảo cậu lạy tôn giả Xá Lợi Phất làm thầy truyền giới. La Hầu La trở thành chú sa di đầu tiên trong giáo đoàn của đức Phật.

La Hầu La chính là hoài bão của công chúa Da Du Đà La, nhưng khi quyết định cho cậu xuất gia, đức Phật cũng đã có dụng ý rồi. Nguyên vì, La Hầu La đã ra đời khi Phật còn là thái tử. Sau đó Ngài đã xuất gia, và giờ đây đã thành đạo, thì ngôi vua của bộ tộc Thích Ca sau này tất sẽ do La Hầu La kế thế, nhưng theo chủ trương của Ngài, một cậu bé tuổi còn quá nhỏ như La Hầu La thì không thể làm chủ thiên hạ được. Cho nên nhân cơ hội này, Ngài bèn phương tiện để cho cậu xuất gia.

Biết La Hầu La đã xuất gia rồi, Da Du Đà La buồn lắm! Nhưng sự việc đã như vậy rồi, bà đâu biết làm gì hơn. Vua Tịnh Phạn thấy bà buồn thì rất thương xót; hơn nữa, chính nhà vua cũng buồn nhớ cháu nội vô cùng, cho nên ngài đã thân hành đi thăm Phật và tỏ bày ý kiến của mình:

- Bạch Thế Tôn! Xin hãy lập qui chế hẳn hòi, từ nay về sau, các trẻ em muốn xuất gia  thì phải được phép của phụ huynh trước đã.

Phật thấy ý kiến đó hợp lí, nên đã hoan hỉ chấp thuận.

Về phần Da Du Đà La, sau khi chồng đã ra đi tìm đạo, thì La Hầu La là niềm vui là và niềm hi vọng duy nhất của bà. Bây giờ đến lượt La Hầu La cũng đi tu nốt thì mọi thứ trên cõi đời đối với bà còn có nghĩa gì! Lòng bà trở nên nguội lạnh, mất hết niềm vui. Bởi vậy sau này, khi thái hậu Kiều Đàm Di được Phật cho phép xuất gia và thành lập tăng chúng tì kheo ni, bà cũng đã cùng với những phụ nữ khác trong dòng họ Thích Ca, đến Tì Xá Li (Vaisali - Vesali) để xin xuống tóc xuất gia. Những ngày đầu bà vẫn không cảm thấy phấn khởi với nếp sống mới trong giáo đoàn, nhưng nhờ Phật hết lòng giáo hóa, chẳng mấy chốc bà chứng ngộ đạo quả, lấy lại niềm vui, sống tràn đầy an lạc trong chánh pháp. Bà vô cùng hoan hỉ và cảm kích ân đức sâu xa của Phật. Phật cũng rất hoan hỉ đã hoàn thành trách nhiệm thiêng liêng đối với bà.

4.- TUỔI TRẺ NGHỊCH NGỢM:

Từ khi La Hầu La xuất gia thì tăng đoàn thiết lập thêm chế độ sa di.

La Hầu La tuy đã xuất gia, nhưng bảo chú phải tu tập nghiêm túc như người lớn thì thật là khó! Một chú bé còn nhỏ tuổi như La Hầu La, hàng ngày phải sống gò bó trong tăng đoàn, nếu là do ý muốn thì không có gì để nói, nhưng nếu vì do hoàn cảnh bắt buộc thì trong tâm lí thế nào cũng nảy sinh nhiều biến chứng khó mà lường được. La Hầu La xuất gia nhưng đã không cảm thấy có gì vui vẻ trong đời sống tăng đoàn, có điều là chú không dám nói ra những cảm nghĩ khó chịu của mình mà thôi. Thường thì trẻ em dưới mười lăm tuổi, đối với những lời chỉ bảo của người lớn, chỉ biết một điều vâng hai điều dạ mà thôi; nhưng một khi đã qua khỏi tuổi mười lăm rồi thì tự nhiên chúng biết bất mãn, biết phản ứng lại những gì không bằng lòng. Chẳng biết La Hầu La có trải qua cái giai đoạn tâm lí đó không, chỉ biết rằng, khoảng mười bảy, mười tám tuổi, tính tình của chú thật ôn nhu, làm việc rất chăm chỉ, nhưng lại thích đùa nghịch như con nít, nhất là thường dối gạt người làm trò vui.

Lúc đó chú đang ở tại rừng Ôn Tuyền (Amrayastika - Ambalatthika), ngoại ô thành Vương Xá (Rajagrha - Rajagaha). Có rất nhiều các vị quan viên, trưởng giả, cư sĩ thường đến tìm thăm Phật. Gặp chú, họ hỏi thăm Phật hiện ngự ở đâu, thì thế nào chú chú cũng nghĩ cách để trêu ghẹo. Nếu Phật đang ngự tại Trúc Lâm (Venuvana - Veluvana) thì chú bảo Ngài đang ở Linh Thứu (Grdhrakuta - Gijihakuta); nếu Phật đang ngự tại Linh Thứu thì chú lại bảo là Ngài đang ở Trúc Lâm! Nên biết rằng, Trúc Lâm và Linh Thứu cách xa nhau hơn hai dặm đường. Sự nghịch phá của chú đã bắt người ta phải đi lại mệt nhọc mà lại không được tham kiến Phật! Như thế mà chú đã chịu tha cho người ta đâu! Khi người ta thất vọng trở về, chú còn vừa cười vừa hỏi:

- Sao? Quí vị đã bái kiến đức Thế Tôn chưa?

- Thưa chú, xin chú đừng trêu chọc chúng tôi nữa!

- Ai dám trêu chọc quí vị, chẳng qua là tôi lo cho quí vị mà thôi.

Rõ ràng là La Hầu La vừa nghịch ngợm, vừa bướng bỉnh, không bao giờ chịu nhận lầm lỗi của mình.

Thế thường, con cái của những gia đình giàu có thường hay cậy thế lực, địa vị của cha mẹ mà làm nhiều điều tác tệ. Trường hợp của La Hầu La xuất thân là cháu vua, con Phật, tuy được xuất gia và sống trong một tăng đoàn bình đẳng, nhưng vì vẫn còn bé bỏng, chú vẫn được người lớn hết mực cưng chiều. Cho nên, có thể nói rằng, cái tính ưa nghịch phá của chú, một phần vì bị ảnh hưởng của cái tập khí cao ngạo sẵn có, một phần vì ỷ lại sự cưng chiều của người lớn.

Một hai lần đầu, người ta còn chưa biết nhưng quá nhiều lần thì không ai là không biết cái tính thích dối gạt người làm trò vui của chú tiểu La Hầu La nữa, và tiếng đồn về chú đã đến tai Phật. Là một người cha hiền, và là một bậc thầy nghiêm nghị, Phật đã rất phiền lòng khi nghe được những lỗi lầm ấy của La Hầu La. Phật muốn đích thân dạy dỗ chú, nên một hôm Ngài đã một mình đi đến rừng Ôn Tuyền.

5.- SỰ RĂN DẠY NGHIÊM KHẮC CỦA PHẬT:

Hôm ấy Phật sang đến rừng Ôn Tuyền với dáng vẻ thật uy nghiêm. Thật là hoàn toàn bất ngờ đối với La Hầu La! Chú vội vàng chỉnh đốn y áo và nghinh đón Phật thật cung kính. Đợi Phật an tọa xong, chú đi lấy nước rửa chân cho Phật. Ngài vẫn không nói năng gì. Mãi đến khi rửa chân xong, Phật mới chỉ chậu nước dơ mà hỏi chú:

- Này La Hầu La! Nước trong chậu này có thể uống được không?

- Bạch Thế Tôn! Nước đó đã rửa chân, dơ lắm, không thể uống được.

- Con cũng giống như nước trong chậu vậy! Nước vốn trong sạch, nhưng sau khi rửa chân thì thì trở nên dơ bẩn. Con vốn là một vị vương tôn, đã từ bỏ những vinh hoa phú quí tạm bợ của thế gian để xuất gia tu hành. Tuy chưa là một vị tì kheo, nhưng con cũng đã thọ giới sa di. Vậy mà con đã không siêng năng tu tập, không làm trong sạch thân tâm, nói năng không thận trọng, suốt ngày chỉ biết dối gạt để trêu ghẹo người. Trong tâm con hiện giờ đầy dẫy những cáu bẩn của tam độc, có khác gì chậu nước trong sạch vừa trở thành dơ bẩn kia đâu!

Từ trước đến giơ Phật chưa bao giờ nói điều gì với người đối diện bằng vẻ mặt nghiêm nghị như vậy. La Hầu La một mực cúi đầu đứng im chứ không dám ngước lên nhìn Phật. Đến khi Phật bảo bưng chậu nước dơ đem đổ đi, chú mới dám di động thân hình. Khi chú mang chậu không vào, Phật lại hỏi:

- La Hầu La! Con có thể dùng cái chậu này để đựng cơm ăn được không?

- Bạch Thế Tôn! Trong lòng chậu cáu bẩn còn dính đầy, không thể đựng thức ăn được.

- Con cũng giống như cái chậu ấy vậy. Tuy đã là người xuất gia, nhưng con không tu tập giới định tuệ, không gột sạch thân miệng ý, tâm niệm đã chứa đầy cáu bẩn thì còn chỗ đâu để chứa các thức ăn đạo lí!

Phật lại đưa chân đá nhẹ cho cái chậu lăn đi, rồi hỏi:

- La Hầu La! Con có sợ cái chậu này bị bể không?

- Bạch Thế Tôn, không! Cái chậu rửa chân chỉ là một đồ vật xấu, dù có bị bể cũng không đáng quan tâm.

- Con không mến tiếc cái chậu, mọi người cũng không mến tiếc con như vậy. Tuy đã xuất gia, nhưng con không gìn giữ oai nghi, chỉ ham dối trá đùa cợt, thì kết quả sẽ đưa lại là chẳng ai thương mến bảo bọc con, đường giác ngộ thật xa vời, cho đến lúc chết con vẫn chìm trong mê ám!

La Hầu La toàn thân chảy mồ hôi hột! Chú thấy hổ thẹn vô cùng. Chú tự hứa là từ nay về sau sẽ nổ lực sửa đổi tâm tính cho thật tốt. Đức Phật lại cho chú nghe một ví dụ:

- Ngày xưa, một quốc gia nọ có nuôi một con voi lớn, rất dũng mãnh, thiện chiến. Mỗi khi nhà vua điều binh lâm trận thì người ta mặc áo giáp cho nó, gắn xà mâu vào cặp ngà của nó, giắt kiếm vào bên tai, cột dao bén vào bốn chân, và buộc thêm một cây gậy sắt vào đuôi nó nữa. Tuy được trang bị nhiều vũ khí như vậy, nhưng mỗi khi giao chiến với quân địch, nó đều lo giấu cái vòi cho thật kín; vì đó là chỗ nhược của nó, nếu bị trúng tên thì chết ngay. Muốn bảo vệ mạng sống, bằng mọi cách nó phải bảo vệ cái vòi. La Hầu La! Giống như con voi kia thận trọng bảo vệ cái vòi của nó, con cũng phải thận trọng giữ gìn lời nói của con. Nếu con cứ tiếp tục cái thói dối gạt đùa cợt thì nhất định sẽ giống như con voi kia để cho cái vòi của nó bị trúng tên. Huệ mạng của con sẽ tiêu mất. Mọi người sẽ xa lánh, các bậc thiện trí sẽ không ngó ngàng tới con, đến lúc chết lại phải chịu khổ trong ba đường dữ!

Đức Phật đã tận tình tận lí, vừa thiết tha vừa nghiêm khắc mà răn dạy La Hầu La. Mỗi lời mỗi tiếng của Ngài đều in sâu vào tâm khảm chú. Chú phát nguyện từ này sẽ tận lực đổi mới thân tâm mình. Cũng giống như thóc lúa, dù chúng ta đem bỏ vào máy xay thành gạo, nhưng hạt gạo vẫn còn chút ít cám bám chung quanh, phải dùng nước vo sạch thì gạo trắng mới hoàn toàn là gạo trắng. La Hầu La tuy có căn lành và xuất thân từ dòng giống cao quí, nhưng phải nhờ nước cam lồ của Phật để gột rửa một phen thì mới trở nên thanh tịnh. Từ đó, chú La Hầu La quả thật đã trở thành một con người mới.