Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm cảm tác
Như đã kết thiện duyên từ thuở ấy, Giọt mưa trời tưới ngọt đất Hồ Nam. Tiêu phụ thân và từ mẫu họ Nhan Dòng vọng tộc, làm quan Thanh triều đại. Quán Âm Tự, cùng phu nhân lễ bái Dâng tấc lòng chí thiết trọn niềm tin Dây nhân duyên se kết mối thâm tình Chốn quạnh quẽ, nghe tiếng cười hài tử. Tâm lắng đọng, vun phước lành cầu tự Cơ cảm này, vọng bái bậc từ tôn Linh ứng kia, sóng nước hải triều âm Tiếng đồng vọng như ru lòng cổ miếu. Bâng khuâng sớm khô gầy đôi bóng liễu Ngẩn ngơ chiều rời rã một hồi chuông Vách đổ, tường xiêu thuyết lẽ vô thường Bức thánh tượng ướt dầm trong mưa lạnh. Đường diệu vợi, ai về trong cô quạnh Chốn xa xôi còn nhớ bước chân xưa Cầu đưa ai qua mấy nẻo gió mưa Qua mấy cõi vu vơ lòng thế sự. Sửa tháp miếu, nối nhịp cầu gãy đổ Tô tượng hình như đắp lại chân thân Phước huệ vun bồi, thiện quả, thiện nhân Nơi nhân địa, rõ mặt mày tự ngã. Tiêu đại phu, bỗng giữa đêm mộng lạ Cùng phu nhân thấy một vị thánh tăng Khoác tràng y, đầu xuất hiện Quán Âm Trên lưng cọp ứng hiện thân trước mặt. Bừng giấc bướm, lạ lùng điềm ẩn mật Cảm ứng đà lộ diện giữa phòng khuê Bậc thánh nhân hiện tướng giữa trần mê Nương nguyện lực vào ra muôn cảnh dữ. Cảm ân đức hạ sanh làm đồng tử Càng trì tâm, hộ niệm bậc thiện căn Luôn cúng dường mong báo đáp Phật ân Cũng vừa độ sương hoa thành tựu ngọc. Nẻo hoạn lộ vinh hoa là phước lộc Chốn quân thần danh lợi bỏ ngoài tai Cán cân đời đâu chênh lệch lòng ngay Nghiêng son đỏ mực chao dòng thanh sử. Đúng thời tiết, tưởng như nghìn thiên sứ Truyền tin lành chấn động cõi hư không Vị đại nhân từ Đâu Suất thiên cung Y chánh giáo phụng hành tông chỉ Phật Bậc nhất sinh bổ xứ, ngài Di Lặc Phú chúc lời lành hưng thịnh Phật môn Phật Thích Ca thọ ký rạng bản tôn Chèo bát nhã đưa thuyền từ lướt gió Sinh chưa từng sinh, tử chưa từng diệt Dấu chân nào sóng biển xóa từng khi Ai hoài công giữ lại vết chân đi Ai ngăn được dòng thủy triều tuôn đổ. Đến với đời trong bọc da thịt đỏ Khiến mẫu thân sinh kinh hãi từ trần Rạch bọc da lộ mặt bậc thánh nhân Đệ bát địa hàng Đại Thừa Bồ Tát. Ân dưỡng mẫu biết lấy chi đền đáp Tuổi thơ ngây sớm lộ tánh tự nhiên Áng thiên thư hồng dấu ấn bổn nguyên Dòng thánh kệ hiện nghìn thân chẳng khác. Thường dùng đất nắn tượng hình Bồ Tát Đặt trên cao rồi lễ bái cung nghinh Tuổi còn thơ đà ưa thích kệ kinh Đà sớm bước vào con đường lập mệnh. Thiên tư vốn rõ nguyên hình chân, tục Bất nhị môn, mê, ngộ, một đường cong Điểm khởi đầu hai nét vạch hoành, tung Cũng là điểm hồi quy về bảo quốc. Trong thế tục phải thuận đường thế tục Hợp luân thường miễn cưởng chuyện thất gia Đính hôn cùng thục nữ, bậc anh hoa Duyên cầm sắt trở thành duyên pháp lữ. Tâm đồng tâm, chẳng bận câu bỉ, thử Đạo như lòng, vô nhân ngã, sắc không Thanh tịnh nghiệp duyên, thanh tịnh gia phong Truyền đuốc tuệ nối giống dòng chư Phật. Tháng hai, niên hiệu Hàm Phong thứ nhất Theo cùng cha viếng hải đảo Đài Loan Chiếc thuyền con trên biển cả mênh mang Nào còn thấy dấu chân trời, mặt nước. Kình ngư hiện trước mũi thuyền chắn bước Cá voi chầu thuyền pháp há ngẫu nhiên Giữa trời mây cảm ứng mối thiên duyên Trên sóng biếc hiện phàm thân triều bái. Liền đồng thanh niệm Quán Âm Nam Hải Mây, nước một màu, người, vật một tâm Thân cự kình hòa sóng nước bể Đông Dần khuất dạng như chưa từng đã đến. …. Mười ba tuổi phải chịu tang nội tổ Nền quê xưa chôn cất nắm xương tàn Chư tăng ni hành lễ tại thôn trang Áo bào quyện bóng chiều vàng cố quận Lời kinh xóa mối lụy sầu u uẩn Tiếng chuông đưa niềm an lạc như nhiên Xao xuyến lòng buổi gặp gỡ đầu tiên Sao mường tượng như đã từng quen thuộc. Chắp hai tay đãnh lễ người hữu đức Phước báu này ai dễ góp phần chung Đức ân dày gia trì lực viên dung [100]. Lòng kính ngưỡng giảm trừ bao tội nghiệp. Tưởng như có nhân duyên từ vạn kiếp Truyện Hương Sơn rạng rỡ đức từ bi Đạo là đời trên mỗi bước chân đi Hiện thân tướng khắp cùng mười pháp giới Ngộ bản nhiên, bồ đề tâm phát khởi Vượt thiên không, đạo khí ngút trời mây Cổ tích lưu truyền, mối đạo trong tay Tâm cung kính vọng thánh hiền chí cả. Nam Nhạc Hằng Sơn cảnh quen, người lạ Đá ngàn năm ở lại với ngàn năm Cảnh thanh nhàn thường phát xuất thánh tăng Duyên pháp lữ ba đời còn thấy lại Ai biết ai, trong tang điền, thương hải Người gặp người, ngần ngại lối đi quen Quyển kinh đời hiện bóng dáng nhân duyên Thân qua lại giữa muôn người qua lại. ….. Mười bốn tuổi ngậm ngùi câu thoát tục Thờ ơ lòng trước vinh nhục thế gian Vì hiếu từ phải vâng lênh phụ thân Đành học hỏi hàng bàng môn, tả đạo Học hít thở, luyện đan theo tà giáo Dù biết si cuồng che khuất tự tâm Biết tham sân giam hãm tháng rồi năm Biết bao kiếp đắm chìm trong vọng dục Tà pháp môn là cửa vào lao ngục Tự trói mình trong kỹ thuật tinh vi Tâm bềnh bồng như nửa tỉnh nửa say Say hương khói, say tượng hình thần thánh Dùng tiếng kệ ru lòng cho qua cảnh Trú đền cao, điện lớn tưởng đang tu Khi gióng chuông, gỏ mỏ ngỡ công phu Dưới khăn áo là ngục tù bất tịnh. Bước bước mơ hồ, bao giờ kiến tánh Thấy kho tàng trong bùn đất thế gian Thấy Phật thân ngự trị giữa hoang tàn Thấy búi tóc gói bảo châu chân, tục. ….. Mười bảy tuổi, sau ba năm hờ hững Chuông khánh lạnh lùng, hương nến dững dưng Một ngày kia, thong thả giữa phòng không Liền lén bước vội đi về hướng núi Nam Nhạc sơn, bản hùng ca ngàn tuổi. Tóc râu này, đâu sóng nước Ni Liên Rừng hoang vu, bước cao thấp chẳng yên Không Kiền Trắc ai người nâng vó ngựa Không cấm thành, không thiên vương phá cửa Núi chập chùng, bước bước mỗi quanh co Tiếng chân đến gần, lời hỏi không xa Lòng kinh hãi nhìn gia nhân hối hả Dây trần thế buộc lắm đường kỳ lạ Mối tư tình, chưa đã dễ phân ly Như tội nhân giữ lại đúng hạn kỳ Như cùng tử chưa tìm về cố quán. Đất Tuyền Châu cha làm nơi quản thúc Lại sai em là Phú Quốc cùng theo Lễ thành hôn hợp cẩn đuốc hương treo Một con rễ, hai con dâu giao bái. Thêm pháo đỏ, rượu hồng, câu đối đãi Thêm chiếu hoa, đèn gấm đặt đôi nơi Thế gian ôi! Tuy cũng thuận với đời Đôi hoa chúc chứng minh tâm cầu đạo Ngoài là chồng vợ, trong là bạn pháp Đổi chữ tình thành chữ tịnh không hai Dưới đèn hoa mang Phật pháp giải bày Thêm tương kính, giữ thân tâm bất nhiễm. ….. Mười chín tuổi hướng Cổ Sơn cầu pháp Trên án thư lưu lại bản trường thanh "Bì Đại Ca" hề! Thực tướng hiện hình Mang sắc tướng chẳng lụy vì sắc tướng Trượng phu hề! Xuôi thuyền trên gió ngược Bể cả, sông, hồ sâu cạn khác nhau Chỗ hồi quy đại xứ nước một màu Cùng thể tánh, người và ta chẳng khác. Dũng Tuyền Tự trên Cổ Sơn cạo tóc Lạy Thường Khai lão hòa thượng xuất gia Thọ Cụ Túc Giới - hòa thượng Diệu Liên Nhận pháp hiệu là Đức Thanh - Diễn Triệt. Không phan duyên, chọn sống đời cách biệt Trong âm thầm suy gẩm pháp nhất thừa Đại Thừa Khởi Tín - danh tác ngàn xưa Tâm hội pháp, thân duy trì tịnh giới. Giữ thân, khẩu, ý không theo vọng khởi Báo thân kia nào khác với Phật thân Miệng phun châu, nhả ngọc giữa bụi trần Ý thanh tịnh, đâu chẳng là pháp ý. Hang núi hẹp đông qua rồi đông đến Sương tuyết bốn bề lạnh trắng sơn trang Mảnh tăng bào chắp vá chuỗi thời gian Chốn quạnh quẽ, sói lang là pháp lữ. Hạt thông rừng làm thức ăn vừa đủ Khe suối nguồn cho nước uống đã dư Ngày tham thiền, đêm nối đuốc công phu Bảo sám pháp, ba ngàn lần đảnh lễ. Tinh tấn đạo tâm hằng khai trí tuệ Tịnh hạnh vun bồi, định lực siêu nhiên Như mây trời, tan hợp đã bao phen Như gió thoảng, đến đi không lưu dấu Không thực, không hư, chẳng không, chẳng có Một thân này gồm đủ cả muôn thân Một tâm đầy, chẳng giả cũng chẳng chân [200] Mười pháp giới rõ bày trong một niệm. Phước huệ song tu, hộ trì tam bảo Bậc đa văn, người quét lá như nhau Tự tánh rỡ ràng chẳng thấp chẳng cao Ai người biết rừng tùng sinh hiền thánh. Gieo tưới vườn rau, vun bồi tâm địa Đất ươm mầm, cây đơm trái, kết hoa Như đất tâm dấu hạt giống Phật Đà Từ muôn thuở, đất âm thầm nuôi dưỡng Từ muôn thuở, cây theo duyên sinh trưởng Đất chẳng hề từ chối nhận mầm cây. Thiên nhân sư ứng hiện thế gian này Xới luống đất cây Bồ Đề nẩy lộc. Hương an lạc cúng dường thiên không hội Vị nhu hòa ban trải địa ngục môn Khắp mười phương chư Phật chuyển pháp luân Chư Bồ Tát khiêm cung đồng ứng hợp. ….. Ngày tháng tên bay, vắng tin, vắng bóng Như giọt sương mai thân phụ qua đời Nhớ tưởng ngày còn bồng bế trong nôi Ai biết trước núi đồi là chỗ trọ. Cảm chí cả như thành trì kiên cố Các phu nhân cũng lập hạnh xuất gia Sen trong bùn, ngọc trong đá, nhụy trong hoa Nơi Phật quốc chúng ma làm quyến thuộc Tam thân Phật, một trong ba, ba trong một Đại thánh đâu chẳng nhiều nổi gian truân Chừng đến bờ quay nhìn lại đoạn đường Biết mê đắm, trước Đề Bà cảm tạ. Chùa Dũng Tuyền bốn năm làm chức sự Chí hướng này, ai là bậc tri âm Trước công danh, lợi dưỡng chẳng động tâm Lấy khổ hạnh làm đường vào mật tạng. Bát cháo lạnh no thế tình đạm bạc Manh áo sờn ấm đạo khí thanh lương. Không tham cầu, chẳng biện bạch thực, hư Hạnh Cổ Nguyệt thiên thu nguyền theo dấu. …… Hai mươi bảy tuổi trở về hang động Lập hạnh đầu đà khiến quỷ thần kinh Giả cảnh chu toàn, chân tánh ẩn trang kinh Muôn dòng kệ gọi thầm trên lá bối Ai nở phụ phàng đức ân tiền bối Một lần đi, một gánh, trọn đất trời. Đường Tây du mây nước hững hờ thôi Đêm trăng lạnh tựa đầu trên gối tuyết. Từ giả tăng phường ẩn trong hang huyệt Tâm đạo đại hùng khiến đá nứt vàng tan Ngày tham thiền.Đêm tham thiền. Tham! tham! tham!. Lấy nước suối, hạt tùng làm pháp thực. Chốn hoang vu lấy vô tranh làm đức Trăng nước bốn mùa chẳng thiếu chẳng dư Tâm địa phơi bày như bản đồ thư Hằng quán chiếu rõ ngọn nguồn sinh khởi. Văn tự ngữ ngôn vì người lưu lại Với Phật tâm một chữ cũng là nhiều Không bận lòng, mặc trăng sớm, sao khuya Thắng cảnh hiện, lòng không hề vướng mắc. Chân bước như bay, thân ngời quang sắc Tai nghe tỏ tường, mắt xoáy màn đêm Chẳng chấp ta, người, thần thái an nhiên Ba cõi tiêu dao, Đông, Tây, Nam, Bắc. ….. Buông xả muôn duyên mặc tình tiêu sái Một ngày kia dừng lại đất Ôn Châu Phong cảnh hoang sơ mây nước một màu Đối cảnh, gặp người hỏi câu cứu cánh!. Nghe pháp ý, nếu chẳng hàng tịnh hạnh Hẳn người trời trú nơi cõi Tịnh Cư. Đáp sao cho vừa vặn, chẳng thiếu, chẳng dư? Tự hổ thẹn, liền tỏ lòng khiêm hạ. Thiên Thai Sơn, Hoa Đỉnh là quán trọ Bậc đạo sư, ngài Dung Cảnh lão nhân. Nhất tâm cầu thiện tri thức minh tâm Đạo viên mật, tâm chúng sinh như thị. Năm Canh Ngọ, niên hiệu là Đồng Trị Đến Long Tuyền đảnh lễ bậc cao tăng Hỏi rằng: Là đạo sĩ?. Là tăng nhân? Hoặc người thế, sao vóc hình quái dị?. Liền chắp tay thưa: Vốn là tăng sĩ. Lại hỏi rằng: Đã thọ giới phải chăng? Học từ đâu cách tu tập lạ lùng? Liền ứng đối: Vốn theo gương người trước. Lại cười rằng: Tế hạnh, oai nghi, ba ngàn, tám vạn Biết trì thân há đã biết trì tâm!. Thoạt nghe qua như suối đổ, thác tuôn Bầm gan ruột, liền thỉnh cầu khai thị. Dạy lời rằng: Đã trèo non, vượt bể Đêm kề sao, đêm tựa nguyệt đến đây Nếu chẳng nghe lời, tùy tiện ra đi. Liền đảnh lễ, quyết một lòng tuân phục. Lão sư dạy hãy sửa hình, đổi vóc Cạo tóc râu, sinh hoạt cũng như ai Hiển giáo rõ ràng, tông chỉ Thiên Thai Quán thây chết, ai nguời đang kéo lết?. Dung Cảnh lão nhân tùy thời khai đạo Giới luật tinh nghiêm, tông giáo liễu thông Mưa pháp gội nhuần kết trái, đơm bông [300] Muốn được pháp nên thường xuyên nghe pháp Đường xa muôn dặm du phương hành cước Đến Quốc Thanh học quy chế thiền đường Sau hai năm tham vấn chốn đạo trường Sang Phương Quảng cầu Pháp Hoa diệu nghĩa Bát Nhã Phật đường mười phương tụ hội Học pháp vô vi kiến tánh vô vi Giữa Phật trường tăng, tục đến dự thi Ai đắc được tâm không thì trúng tuyển. Cao Minh Tự - ngày ngày nghe thánh điển Diệu Pháp Liên Hoa - thấu triệt toàn kinh Cùng Cảnh hòa thượng đàm đạo thâu đêm Lạy bái biệt, một mình đi xuống núi. ….. Đi ngang qua chùa Nhạc Lâm Tuyết Đậu Vẳng lời kinh ghé bước lại bên hiên Vào bên trong quỳ lạy kết pháp duyên Lòng cung thỉnh được nghe lời tự thuyết A Di Đà kinh - thánh ca bất tuyệt Có bao giờ tánh tướng phải ly khai Có bao giờ trăng nước vỡ làm hai Lòng nhân thế như thủy triều lên xuống. Phổ Đà Sơn - biển xanh lòng pháp hải Tiểu Bạch Hoa - rơi trắng lối tiên thiên Đêm tham thiền, ngày lễ bái thánh hiền. Chùa Pháp Vũ chọn làm nơi tạm trú. Cung Thủy Tinh - Đức Quán Âm hóa độ Đóa sao trời phiến ngọc trổ lưu ly. ……. Chùa A Dục Vương ngày ngày đảnh lễ Đóa ngọc xưa còn để lại cho đời Một chút này đây, ghi tạc thế nhân ôi! Là thánh thể, là mặt trời trí tuệ Ngã, Pháp đồng hư không, đâu dâu, đâu bể Một tâm này tức đồng với Phật tâm Muôn thân này thực báo giữa trầm luân Biển lặng sóng, nhục thân là pháp bảo. Qua lại, đến đi, hang sâu, vực thẳm Vùi ngọc châu trong bùn đất dững dưng Thoảng lời than nhắn gởi gió đưa chuông Dường mắt ướt ẩn trong lòng giấy mới. Tâm đại bi, lấy đức lành vun tưới Trí đại từ, chọn giống thiện ươm hoa. Một niệm gồm thâu, trên, dưới, gần, xa Muôn tướng chẳng lìa, đến, đi, qua, lại. ….. Đến Tam Thiên Trúc viếng người viếng cảnh Đất Hàng Châu, triều bái bậc thiện nhân Tiết hè oi ả, thuyền nhỏ, người đông Mây nước bềnh bồng, trời xanh, đáy biếc. Khoang chật hẹp, gái, trai, chen hàng lớp Phiến lênh đênh, tăng, tục, dựa chập chờn Đêm giật mình, dường ai chạm vào thân Nhìn bên cạnh, gái lõa lồ mời mọc Liền đoan tọa kết kiết già trì chú. Tâm kim cương, hoằng nguyện dễ gì tan Đã ngàn năm dục niệm thuở Ma Đăng Cảnh có khác, đạo tâm không sai khác. Bức hoành đồ vẽ trời cao đất rộng Dấu chân nhân in bóng nước hồ xanh Sóng vỗ đôi bờ như thủy, như chung Đâu là chỗ tận cùng dòng lãng bạc. Vời vợi trăng non mờ dấu hạc Đong đưa liễu biếc thoảng cành sương. Phật quốc trùng trùng bích hải, thiên không Nhân cảnh mang mang phù bào, nguyệt ảnh Siêu xuất ma cung. Phổ truyền thánh pháp. Giang Tô Thường Châu - Thiên Ninh cổ tự Hòa thượng Thanh Quang - thiền, giáo, hành trì. Lưu lại nơi này tham học thanh quy Niệm danh Phật giữa núi đồi tĩnh mịch Pháp thánh nhân thuận theo thời biến dịch Khí hạo nhiên bất tuyệt đạo kim quang Nhân kiệt, địa linh, hổ phục, long chầu Pháp hỷ, thiền duyệt, tông nghiêm, giáo hiển. Như sư tử cuộn mình xanh đỉnh biếc Ngọn Tiêu Sơn ngăn sóng nước Trấn Giang Chùa Huệ Cư thừa tự có thánh tăng Hư Công theo chúng tham cầu mưa pháp Duyên tương ngộ gặp được người dũng tướng Trấn giữ ngàn hải lý giữa ba quân Chí hùng anh vùng vẫy mấy trùng dương Lòng vì pháp dưới đài hoa quy mạng. ……….. Dựng gậy thiền, một hạnh vạn nghìn môn Cưỡi gió pháp, ba thân không một tướng. Đai ngọc quý, Tô tướng quân bái phục Lửa than hồng, Giác hòa thượng điềm nhiên Trên bồ đoàn bạc màu áo tăng sinh Giữa pháp vị tươi sắc hoa đạo hạnh Trăng núi lạnh ẩn dòng mây trầm mặc Nước khe sâu tuôn nguồn mạch tự nhiên Niệm Phật danh, chấp ta, Phật, đôi bên Chẳng nhìn được lúc môi chưa mấp máy. Hai mươi năm, muôn dặm đường xuôi ngược Đá cũng mòn theo sóng vỗ ngàn năm Mảnh mảnh tăng bào tiều tụy xác xơ thân, Lòng cầu đạo phiêu bồng cơn gió nghiệp. Phổ Đà Sơn. Tiểu Bạch Hoa.Nam Hải. Giải thiên hà hoa trắng điểm dòng xanh Đêm lặng vô cùng, đồng vọng lời kinh Trăng nước bốn mùa.Trời mây một cõi. Đầu tháng bảy hướng Thanh Lương triều bái [400] Ngũ Đài Sơn băng tuyết phủ quanh năm Đường gập ghềnh, ba bước chỉ một tâm Gió hờ hững thổi ngang manh áo bạc. Bốn vị thiền tăng phát tâm hộ pháp Làm phụ hương đến được đất Hồ Châu. Dưới trăng vàng phủ phục báo tứ ân Gội mưa nắng trải thân từng nhịp bước. Đất cũ, người nay, trời Tây, đỉnh Bắc, Duyên khác xưa lòng chẳng khác lòng xưa. Một lần đi, nhị khổ - chuyển pháp luân Thêm một bước, đoạn gốc cành phiền não. Lại một bước, tựu thành muôn nghiệp đạo Đây ứng thân chiếu rạng pháp thân tàng Phương tiện làm viên tịnh tánh chân quang Lực thiền định trên đôi chân thần túc Thấy cảnh lạ, người sinh lòng kính phục Thêm thiện nam, thêm tín nữ nối nhau Dáng như rồng uyển chuyển dưới trăng chầu Tam thế Phật - Ngũ Đài Sơn vọng bái. Đến Thường Châu, sau nhiều lần khuyên giải Bốn tăng nhân đồng một ý thối tâm Còn lại một mình, trăm núi, nghìn sông Thân đói khát, gân xương đều rời rã. …… Tại Ngưu Đầu sơn, U Thê, Nham Hạ Hang đá bốn mùa, tinh tấn dụng công Danh tiếng xa gần, thiền vị Pháp Dung Tựu linh khí vầng mây hồng núi Bắc. Tứ Tổ Đạo Tín, ngày kia dừng bước Hỏi: Là ai? Tâm quán, quán vật chi? Sư không trả lời, mời Tổ viếng thảo lư Tiếng lang sói gầm rung gian lều cỏ. Tổ ra vẻ hãi kinh.Sư chẳng ngộ. Chữ Phật này.Tổ viết trên bồ đoàn. Vạch ngắn dài, pháp kiến tánh minh tâm. Trên nét bút hiện toàn chân diệu tạng. Phụ mẫu sở sinh thanh tịnh thường nhãn. Sáu căn này tự tại đấng pháp vương Thân tâm này lục nhập, sắc, thanh, hương Pháp đốn giác vượt nghìn muôn thứ đệ. Sư Tử con được chăn nuôi, bồng bế Chẳng bao lâu hùng khí khác chi mèo. Đến một ngày, nghe suối chảy như reo Soi bóng nước, biết mình là Sư Tử. Qua bảy mươi dặm dến vùng Phổ Khẩu Đỉnh non thiêng gọi hành giả mười phương Đêm trăng xanh, ngày với mặt trời hường Duyên đạo hạnh đưa chân người cầu pháp. Phụng Dương, Hào Châu, Thiếu Lâm, Bạch Mã Hùng Nhĩ sơn máu nhuộm sắc tuyết hồng Chuỗi sổ châu đổi lấy một đường gươm Vách đá lạnh chín năm dường đủ ấm. Đất Lạc Dương lần đầu tiên khai ấn Phiên dịch bản kinh Tứ Thập Nhị Chương Trúc Pháp, Ma Đằng, ngựa trắng đưa hương Biển lửa lớn hiện tàng kinh rực rỡ. ….. Ngày cuối Đông dừng chân nơi quán trọ Không am mây, không chùa núi gần xa Phơi chiếc tăng bào ướt lạnh gió mưa pha Đêm trừ tịch bến sông nhìn sóng gợn. Sau một ngày tìm thuyền qua sông lớn Vượt Hoàng hà trời nước một màu đen Không chỗ, không nơi, chẳng biết, chẳng quen Gian lều cỏ run mình theo gió hú. Sông nước lạnh lùng, trời mây bao thuở Trên sàn thiền trăng ngó liếp rơm xiêu. Tuyết một màu trắng lạnh bến sông khuya Ai là kẻ quán tâm, tâm ai quán. Đêm trống trải co mình trong góc vắng Sương tuyết làm mùng, gió đắp thân run Sàng đất ướt dầm, thoi thóp từng cơn Duyên hội tụ, giả thân làm giả bệnh. Sau ba ngày hôn mê trong đói lạnh Pháp nhẫn làm tòa, lục chủng tướng quang minh. Biết khổ lạc này chẳng xứ diệt, chẳng xứ sinh Thân tâm thọ, vì đâu mà trói buộc. Nắm tuyết lạnh.Cháo kê vàng.Lửa đỏ. Hỏi là ai, Văn Cát hoặc Diệu Thù Giả tỳ khiêu, khất cái, giả trí, giảngu [478] Cảm tức ứng, trước sau không một vật. |