Vĩnh Minh Tự Viện

Tuesday, Nov 26th

Last update09:58:49 AM GMT

Đường dẫn hiện tại Văn Hóa - Văn Học - Nghệ Thuật Tùy Bút Một Lần Qua Sông

Một Lần Qua Sông

Email In PDF

Đinh Vũ Thùy Trang

Tôi đọc Độ Tang Càn của Giả Đảo ở chốn xa quê. Và nếu bạn cũng đọc nó với tâm thế của một người đang sống nơi  đất khách, có thể bạn sẽ thấy Giả Đảo không xa lạ gì. Cả bạn và tôi cũng thế, hình dung chúng ta cùng mang mang  một nỗi niềm. Đó là tâm trạng chung của những kẻ sống trên mặt đất và nhớ bầu trời…

 

Khách xá Tịnh Châu đi thập sương / Quy tâm nhật dạ ức Hàm Dương / Vô đoan cánh  độ Tang Cần thủy / Khước vọng Tinh Châu thị cố hương.

(Quán khách Tịnh Châu đã chục sương,

Làng quê canh cánh nhớ Hàm dương.

Tình cờ qua bến Tang Càn nọ.

Trông lại Tịnh Châu tựa cố hương”(1)

(Độ Tang Càng – Giá Đảo)

Con người thường là kỳ lạ như thế, không thể sống mà không vọng tưởng, không nhớ, không trông…Nhớ quá khứ, trông chờ tương lai, còn hiện tại mất hút đâu đó giửa chênh vênh tâm tưởng mong chờ kia. Nhưng với con người kẻ sống mà không vọng tưởng mới là lạ.Cứ phải nhớ tiếc, khổ đau vì một chuyện đã qua; hay lo âu, chờ đợi một điều gì chưa đến, cuộc sống như vậy, với con người mới thật sự có ý nghĩa.

“Khách xá”, hai con chữ khô khốc đó cho ta hiểu trọn vẹn một ý nghĩa: chỗ tạm, cõi tạm, “cõi người ta”…trong tâm tưởng người tha hương. Thân ở Tịnh Châu mà tinh thần không cùng ở. Ngày đêm cùng đau đau một nỗi nhớ Hàm Dương. Dường như ngày ở Tịnh Châu rất dài…năm tháng trong lòng người xa xứ thường được tính từng tháng, năm…tưởng như rất cụ thể mà lại mơ hồ như thế.

Nói tới Giả Đảo, ta nhớ một thi sĩ đẽo gọt câu chữ. Độ Tang Càn không như thế, không thấy dấu hiệu của sự đẽo gọt, chỉ bàng bạc một triết lý thiền sâu sắc, sâu đến mức nó như một tâm lý tự nhiên của con người.

Con sông nào cũng là con sông của bến và bờ. Mà bến có khi là bờ, bờ có khi là bến. Thôi không gọi là bến, là bờ nữa. Con người lại gọi là bờ bên này, bờ bên kia. Vẫn phân hai đó thôi. Bên này sông là quê người, bên kia sông mới là quê mình. Thế giới phân hai đó xác định được là nhờ có cái ta làm tâm điểm. Cho nên tuồng như không phân hai thì cái ta phải lơ lửng, phải tan chảy, phải là không…, khí vị ngậm ngùi của một cái ta trong khoảnh khăcđốn ngộ, vì vậy sẽ rất người, rất đời thường, thường như một tình cảm chân thực tự nhiên của con người: Mười năm sống ở quê người là Tịnh Châu, lòng không lúc nào thôi nhớ đến quê hương Hàm Dương, không ngờ qua sông tang Càn rồi, xa nhìn lại Tịnh Châu là quê cũ. Thế thôi.

Mà đâu là Tịnh Châu, đâu là Hàm Dương? Cái địa danh Tịnh Châu ở Sơn Tây, Hàm Dương của Thiểm Tây chỉ là một nét nghĩa mờ, thậm chí không cần biết tới. Cái cụ thể đã thoát thân làm cái trừu tượng.

Nhưng cái trừu tượng lại mang ý nghĩa rõ ràng nhất. không ai trong chúng ta cảm thấy xa lạ với ý nghĩa : “Ở Tịnh Châu mà nhớ Hàm Dương” ây của Giả Đảo. Thứ tình cảm đau đáu trong lòng ngày đêm kia, một ngày cũng tìm về cho thỏa nhớ trông.

Một lần qua sông bỗng thấy năm tháng ở quê người sao mà đằng đẳng: “trải mưoi sương”! Thời gian sống mà như  chỉ là thời gian của tâm trạng.

Một lần qua sông, chợt thảng thốt nhận ra mình cũng chưa hiểu hết về mình, cũng xa lạ với chính mình, ngay cả cảm giác trong lòng Tịnh Châu là cố hương, mình cũng bị đánh lừa bởi cái gọi là Ngày đêm lòng đau đáu một nỗi nhớ Hàm Dương…!Tưởng là xa lạ mà bỗng hóa thân quen, tưởng là quê người mà hóa ra từ lâu trong lòng đã là máu thịt…phải chăng: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn?”(2). Mà không phải bấy nhiêu đó, nhận ra quê người Tịnh Châu là quê hương của lòng mình, thật ra đó chính là chỗ ảo diệu vô cùng trong tâm trạng của con người: có nhớ nơi khác thẩm sâu (Ngày đên lòng đau đáu nỗi nhớ Hàm Dương) mới có lúc nhớ cái đã quên từ sâu thẳm (Tịnh Châu là cố hương). Cứ ở đây mà trông kia đi, rồi sẽ có một cuộc ra đi để trở về tình cờ nào đó khiến cho ta ngạc nhiên: ta đã yêu lắm thứ mà ta ngỡ là xa lạ.Cuộc biệt ly sẽ làm sáng tỏ tất cả. Tinh thần thực tiễn trong nhận thức của dân tộc Trung Hoa là ở chỗ đó, cái mà chúng ta thường nói là Phật giáo Trung Hoa  chính là Thiền được Trung Hoa hóa cũng là ở đó.

Cho nên, “qua sông” một lần để một lần thấy ra cảm giác thật của lòng mình. Một lần qua sông, một khoảnh khắc đốn ngộ. “Độ”, từ Trung Hoa này gọi cho chúng ta nhớ đến Bát Nhã Tâm Kinh. Không ngẫu nhiên chút nào khi ta liên hệ “độ” trong Vô đoan cánh độ Tang Càn thủy với “độ” trong “độ nhất thiết khổ ách”: vượt qua, qua. Lại thêm từ “cánh”, cánh là rồi, là xong là rốt ráo…là như “giai không” . Cánh độ : qua rồi, qua tất cả rồi. Câu kinh: “yết đế, yết đế…” của Bát Nhã như có ai hát lên ở đây.

Phải thấy năm uẩn đều là không thì mới vượt thoát mọi khổ ách. Phải đứng ra khỏi năm uẩn là không phải ta. Cho nên ta cứ hiểu tại sao phải một lần qu sông! Cứ hiểu như Govinda trong Con đường mây trắng: “Muốn  nhận rõ kích thước một ngọn núi ta phải đứng xa nó; để thu nhận dạng của nó vào lòng ta phải đo quanh nó; để hiểu vui buồn của nó  ta phải biết quan sát nó trong mọi thời khắc của ngày, của năm: lúc mặt trời mọc và lặn, giữa trưa và trong sự tĩnh lặng của đêm, trong những ngày mưa tối và dưới bầu trời xanh, trong tuyết mùa đông và giữa những cơn bão…” Nhưng nào phải là một sự trù tính sẵn, một kế hoạch định sẵn. tự nhiên vậy thôi, xa quê tự nhiên nhớ quê, nhưng cũng tự nhiên qua sông, tự nhiên ngoảnh đầu trông lại..và thực tại vỡ òa…

Lịch sử Thiền Trung Quốc bàng bạc những sự “đột nhiên” khai mở thú vị như thế. Nó cũng là tâm thề sống của dân tộc này. Họ thực tiễn mà không đến nỗi thực dụng, họ không bao giờ đánh đổi kiếp người nhọc nhằn  mưu sinh của họ trên mặt đất này, dưới bầu trời này bằng một  kiếp sống khác, chỉ mong kéo dài thêm mà thôi..và họ đã tin là con người có thể “trường sinh bất tử” được. Họ thích thú nhận diện cuộc sống , nhận diện những tâm lý mới mẻ, kỳ lạ mà hết mực tự nhiên  trong chính con người họ. Cho nên văn nhân Trung Hoa  kiên nhẫn đưa vào thơ của họ, những hình ảnh, những khía cạnh rất tầm thường mà đầy nhân tính, trần gian vô cùng ý nhị của cuộc sống. Nó có nghĩa rằng, ta không thể bỏ qua quan niệm về nhân sinh và thế giới của người Trung Hoa khi tìm hiểu thơ văn, nghệ thuật của họ.

Dù đến ngày nay, người ta vẫn còn băn khoăn về nụ cười của Tôn Giả Ca Diếp và cành hoa của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong hội chứng Linh Sơn(3). Phật giáo Trung Quốc vẫn là thứ Thiền Ấn Độ được Trung Quốc hóa, điều đó không ai chối cãi được. Khổ đau, hạnh phúc, bình an cuộc sống..được diễn tả trong thơ Đường rất mực cụ thể, giản dị: một sợi khói chiều, một cánh cổng sài khép nhẹ, một cánh chim lẻ loi bay lạc, thiếu phụ soi gương thấy đầu bạc…và chính vì thế giới khách quan, nội tâm cũng như ngoại giới, được miêu tả như một quá trình nhận thức, nó lấy cái cụ thể, hữu hình để biểu lộ cái trừu tượng, cái vô hình…nên sức gợi thơ của Đường là rất lớn. Nói như Will Durant: “Nó không biện luận, nó gợi cho ta hiểu thôi; nó nói ít, làm thinh nhiều hơn”.

Cũng vậy, thơ văn của họ không diễn giải  một thứ giáo nghĩa tôn giáo nào, kể cả Thiền tông; mặc dù giữa chú />

(2). Thơ Chế Lan Viên

(3). Thuật ngữ thường dùng “niêm hoa vi tiếu”