Huệ Viễn đại sư họ Cổ, nguyên quán xứ Lâu Phiền ở Nhạn Môn thuộc tỉnh Sơn Tây. Ngài sanh tại Thạch Triệu, năm Giáp Ngọ, vào niên hiệu Diên Hy đời vua Thành Đế nhà Tấn. Cả song thân đều khuyết danh.
Lịch Sử
Liên Tông Đệ Nhất Tổ Huệ Viễn Đại Sư
Tôn Giả La Hầu La (Mật Hạnh Đệ Nhất)
Tôn Giả La Hầu La (Mật Hạnh Đệ Nhất) Phần I
1.- CẬU BÉ HẠNH PHÚC NHẤT THẾ GIAN:
Khi chưa xuất gia, Phật vốn là vị thái tử của thành Ca Tì La Vệ (Kapilavastu - Kapilavatthu). Thái tử đã cưới công chúa nước Câu Lị (Koliya) là Da Du Đà La (Yasodara) làm vợ. Thái tử và công chúa đồng tuổi. Năm mười chín tuổi, công chúa sinh hoàng tôn La Hầu La. Thái tử vui mừng lắm, nhưng không phải là niềm vui thông thường của người đời khi sinh con. Nguyên vì trước đó, đã mấy lần thái tử xin phép phụ vương Tịnh Phạn (Suddhodana) đi xuất gia học đạo, đều không được chấp thuận, nhưng đức vua có hứa, nếu khi nào thái tử sinh được vương tôn thì ngài sẽ cho phép xuất gia. Bây giờ thì vương tôn La Hầu La đã ra đời, nguyện vọng xuất gia của thái tử chắc là thực hiện được; bởi vậy thái không vui mừng sao được!
Tôn Giả A Nan (Đa Văn Đệ Nhất)
Tôn Giả A Nan (Đa Văn Đệ Nhất) Phần I
1.- NHÂN DUYÊN XUẤT GIA:
Khi cầm bút viết về cuộc đời tôn giả A Nan, tự nhiên tôi nhớ đến lời của đức Bồ Tát Văn Thù (Manjusri) khen ngợi tôn giả:
“Dung mạo sáng đẹp như trăng trung thu,
Đôi mắt cười hiền như sen mới nở,
Phật pháp bao la như biển cả,
Đều chảy hết vào tâm A Nan".
Tôn Giả Ưu Ba Ly (Trì Giới Đệ Nhất)
Tôn Giả ƯU Ba Ly (Trì Giới Đệ Nhất) Phần I
1.- XUẤT THÂN TỪ GIAI CẤP NÔ LỆ:
Theo luật lệ khắc nghiệt về giai cấp của xã hội Ấn Độ thời Phật tại thế, việc tôn giả Ưu Ba Li được liệt vào một trong mười vị đệ tử thượng thủ của Phật không phải là một việc bình thường!
Ưu Ba Li nguyên xuất thân từ chủng tộc Thủ đà la, tức giai cấp nô lệ, hạ tiện. Từ lúc mới sinh ra, những người thuộc giai cấp này đã bị xã hội kì thị, coi như phân rác, không thèm ngó tới. Trên đường đi, nếu gặp những người của hai giai cấp Bà la môn và Sát đế lị thì họ phải quì nép bên lề, nhường đường cho người kia đi qua; nếu lén nhìn trộm những người kia thì họ liền bị móc mắt; nếu biện bạch tự bào chữa thì liền bị cắt lưỡi. Suốt đời họ chỉ được làm nô lệ cho các giai cấp trên. Thân phận của Ưu Ba Li buồn thảm, đáng thương là vậy! Chàng chỉ có một nguồn an ủi duy nhất, đó là tình yêu thương vô bờ của cha mẹ!
Tôn Giả A Na Luật (Đệ Nhất Thiên Nhãn)
Tôn Giả A Na Luật (Thiên Nhãn Đệ Nhất) Phần I
1.- TUỔI THƠ KHÔNG LO LẮNG:
Trong 16 vị A La Hán được ghi trong kinh A Di Đà, có một vị tên là A Nậu Lâu Đà, đó chính là tôn giả A Na Luật vậy.
A Na Luật đã được sinh ra trong vương tộc, vốn là em chú bác ruột của Phật. Sau khi vua Tịnh Phạn (Suddhodana, phụ hoàng của đức Phật) thăng hà, người lên ngôi kế vị là đại tướng Ma Ha Nam (Mahanama). Ông này chính là anh ruột của tôn giả A Na Luật. (Ma Ha Nam là cháu kêu vua Tịnh Phạn bằng bác ruột. Có thuyết cho rằng, ông Ma Ha Nam này với tì kheo Ma Ha Nam, một trong năm vị đệ tử A La Hán đầu tiên của đức Phật, là một người. Theo đó, sau khi vua Tịnh Phạn băng, vì xét thấy cả Nan Đà và La Hầu La không có khả năng kế vị, nên đức Phật đã cho phép Ma Ha Nam hoàn tục để kế thừa trị vì vương quốc Thích Ca. Thuyết này có lẽ không đúng. Ma Ha Nam ở đây với A Na Luật là hai anh em ruột. Gia đình chỉ cho phép một trong hai người đi tu, cho nên A Na Luật đã đi tu thì Ma Ha Nam phải ở nhàn để quản lí việc nhà. Ông là một cư sĩ thuần thành, thường cúng dường cơm áo và thuốc men cho tăng chúng. Tì kheo Ma Ha Nam trong nhóm Kiều Trần Như là một người khác, còn có tên là Ma Ha Nam Câu Lị - Mahanamakoliya - Chú thích của người dịch).
Các bài viết khác...
Trang 5 / 9