Vĩnh Minh Tự Viện

Monday, Apr 29th

Last update09:58:49 AM GMT

Đường dẫn hiện tại Thơ - Tùy Bút Trên Đỉnh Phù Vân

Trên Đỉnh Phù Vân

Email In PDF

Lần đầu tiên độc hành trên đất Bắc, chưa thỏa sự hiếu kỳ giữa kinh đô nghìn năm văn vật, chưa thể nguôi ngoai niềm khát khao về một miên linh thánh, còn đó những danh sơn thắng tích, còn đó những huyền thoại mang mang, như một kẻ rong chơi giữa hành trình vô định, lặng lẽ tôi đi.

Xuôi chuyến xe sớm từ Hà Nội ra Quãng Ninh, lần lượt những địa danh thoãng qua tai như những lời thủ thỉ. Không phải những Đà Lạt, Vũng Tàu, không phải những Sa Pa, Tam Đảo..., mà là Hải Hưng, Đông Triều, Côn Sơn, Kiếp Bạc... Những địa danh ngàn đời gắn liền với lịch sử, giáo sử, trong giây phút mơ màng, đối với tôi nó đã thành huyền sử.

Qua khỏi Đông Triều khoảng hơn nửa giờ xe, một cảnh tượng tự nhiên cuốn hút tôi như một điều kỳ diệu linh thánh, một đỉnh núi hùng vĩ vút cao nhô mỏm đá cheo leo ra tự tình cùng mây trắng. Vẫn tự miên trường hằng hữu, mà lại mơ màng như có như không. Chưa một lần chiêm ngưỡng, nhưng tự đáy lòng đã như thầm hiểu, tôi buộc miệng kêu lên: Yên Tử! Yên Tử!

Băng qua mấy dốc đồi khe suối, tôi đã đến chân núi Yên Tử. Chuẩn bị tư trang nhẹ nhàng cùng với cây gậy trúc, tôi bắt đầu đặt chân lên thánh địa khi nắng mai đã dát vàng lên từng lá cây ngọn cỏ. Dốc lên thăm thẳm, hun hút giữa bạt ngàn cỏ cây là từng phiến đá, dẫu rêu phong ảm đạm nhưng vẫn mới lạ trong từng phút giây. Bước chân không thể làm cho đá mòn như nước chảy, đá không thể in hằn dấu chân như cát mịn, nhưng đá và chỉ có đá mới là kẻ chứng nhân miên viễn cho cả xưa sau về hội tụ. Giữa sự yên ắng rộn ràng của hoa rơi lá rụng, giữa sự tịch lặng tưng bừng của gió thoảng mây trôi, tôi cảm như bước chân dẫm lên bước chân, hiện tại đang dẫm lên quá khứ, lớp lớp xếp đều nhau với một trật tự đáo để của tự nhiên. Con người sao nhỏ bé quá! Nhân ngã sao tầm thường quá! Ném hết thị phi vào một thoáng vô cung, may ra còn chút đồng điệu để cảm thông, để nghe ra những trang huyền thoại. Làm sao một ông vua có thể lặn lội trong đêm để trèo lên dốc núi? Làm sao chốn lam sơn chướng khí này lại là trụ xứ của bậc quân vương? Càng lên cao dốc càng đứng, đó đây dọc đường là những bia đá đã mòn, tôi thở hổn hển, mệt nhoài, nhưng phía trước vẫn hấp dẫn tôi kỳ lạ. Phía trước không còn là dốc đá cheo leo nữa, mà là những cây tùng. Hai hàng tùng hai bên tủa ra những bộ rễ khỏe khoắn đan chéo giữa đường đi, tạo thành những bậc tam cấp đều đặn, tự nhiên và vô cùng đẹp. Những cây tùng cao to mà tương truyền được vua Trần trồng từ độ ấy, độ ấy đến bây giờ, 700 năm hay 1000 năm dường như không còn quan trọng nữa, miễn là của vua trồng, Thái Tông hay Nhân Tông cũng không còn là điều đáng kể. Đáng kể là tự bấy lâu nay, nó vẫn sừng sững trơ gan cùng tuế nguyệt làm vật chứng cho niềm tin bé bỏng lên ngôi. Từng rễ tùng là từng trang sử, bước lên từng rễ tùng là bước lên từng giai thoại tháng năm.

Qua khỏi đoạn đường tùng tim tôi như thót lại, phía trên là một cảnh tượng kỳ bí đến mê hồn. Từn ngôi tháp cổ hiện ra,lớn có nhỏ có. Gần cả trăm ngọn tháp châu tuần quanh một vách tường đá thấp, bước qua ô cửa vòm của tường đá là đối diện ngay một ngôi tháp trung tâm, không cao lớn lắm, không đồ sộ lắm, nhưng vẫm là ngôi cao giữa tịch lặng bốn bề. Không còn nghi ngờ gì nữa, tháp của vua Trần Nhân Tông đây rồi! Nơi an nghĩ của Đấng Điều Ngự Giác Hoàng đây rồi! Tôi buông túi vải xuống, bỏ nón gậy xuống, như trút bỏ hết lớp son cuối cùng của phồn hoa phố thị, trong một niềm xúc động vô biên, tôi đê đầu đảnh lễ, ba lạy trang trọng và thành kính nhất trng đời, quên kìm hảm cả sự xúc động từ hai bờ mi chảy dài xuống má. Quay lại nhìn qua ô cửa vòm của bức tường đá bao quanh, chập chùng mây trắng lá xanh, vài con đường mòn đất đỏ uốn lượn như những sợi dây vắt qua phiến lá. Dưới kia trần gian sao mà nhỏ bé thế! Uống một ngụm nước trong để lắng động tâm can và nghe từng cơn gió núi, bất chợt một bài thơ của Trần Tử Ngang hiện về, âm vang từng tiếng:

“Tiền bất kiến cổ nhân

Hậu bất kiến lai giả

Niệm thiên địa chi du du

Độc sảng nhiên nhi lệ hạ”.

(Đăng U Châu Đài Ca – Trần Tử Ngang)

Tạm dịch:

Bao người kim cổ nay đâu

Ngàn xưa cho đến ngàn sau bẽ bàng

Mênh mang trời đất mênh mang

Một mình bất chợt đôi hàng lệ sa.

Đang miên man với dòng suy nghĩ, bỗng một tiếng chuông từ đâu trên cao vọng xuống. Tiếng chuông chùa hay chuông núi? Âm thanh của người hay âm ba của suối? Của ai cũng kỳ diệu linh thánh giữa lúc này. Đi thôi! Gần lắm – lòng tự bảo lòng – tôi nhẹ nhàng xách gậy nón đứng lên, tạm biệt vườn tháp huệ quang, qua những gốc cây đại cuồn cuộn những thớ vỏ dày như những bắp tay của lực sĩ, bước lên những thỏi gạch cũ mờ rêu phong in nhiều dấu tích. Nhìn lên, nhũng bậc tam cấp cao là mái chùa cổ kính: Hoa Yên Tự. Tôi lẩm nhẩm đọc trong đầu cái tên quen thuộc, lục lọi những kiến thức lịch sử ít ỏi của mình: Chùa Hoa Yên từng là nơi hoằng hóa của Phù Vân Pháp Sư, là nơi Trần Thủ Độ từng nói với Thái Tông: “Hoàng thượng ở đâu thì triều đình ở đó”, là nơi Tổ Trúc Lâm trụ tích đến cuối đời, là nơi truyền pháp cho Tổ sư Pháp Loa, là nơi Huyền Quang Tôn Giả bao ngày vững chong ngọn đèn Tổ Đạo... Bấy nhiêu cũng đủ cho lữ khách cảm thấy diễm phúc khi mình đặt chân đến thắng địa này. Chùa cũng khá đơn sơ, nhỏ nhắn, nhưng quang cảnh núi rừng thật là tịch mịch, bao la. Những gốc sứ oằn mình dưới lớp thời gian 700 năm dài đăng đẵng, mà cành lá vẫn tươm ra những hoa trái nõm nà. Bữa cơm chùa đạm bạc với rau dưa, mà vẫn thắm đẫm đời tu nhờ một lần về Yên Tử.

Đến Hoa Yên chỉ là mới một nữa đường lên đỉnh, tôi quyết định lên đến Chùa Đồng ngay trong ngày tháng quý báu này. Dốc đá lên cao, dựng ngược và trơn láng quá, phải níu dây rừng và nương gậy trúc mới mong khỏi trượt té. Qua khỏi Chùa Một Mái, lên một đoạn nữa là Chùa Bảo Sát, thấp thoáng dáng Ni gầy với nâu sòng sạm vạt. Càng lên cao không khí càng loãng, mây trắng la đà ven sườn đá tảng, khí thiêng Yên Tử dựng hình với tượng Đạo sĩ An Kỳ Sinh hóa đá, cùng với hoa cỏ dọc đường làm vơi đi nỗi mệt nhọc trèo non. Khoảng 3 giờ chiều là tôi đến được đỉnh Chùa Đồng, lòng xúc động và vô cùng mãn nguyện.

Trên đỉnh phù vân mây ngàn và gió núi. Mây ở đâu nhiều quá, cuồn cuộn bay về như muốn che lấp non xanh. Không khí trên đây lạnh quá, ngôi Chùa Đồng nhỏ nhắn bên một ngôi chùa cổ đơn sơ, như hội tụ khí thiêng đất trời về trong một góc. Nén hương thơm không thể làm ấm lại không khí bạt ngàn của mây trắng, tôi cúi xuống tìm một khúc gỗ mạo muội đóng ba hồi hồng chung dài trên đỉnh non cao. Mây tự nhiên tan ra, khoảng khoát. Ánh nắng chiều hồng lên, có thể nhìn thấy mây từ đỉnh cao tràn xuống đỉnh thấp, điệp trùng như mộng. Chốc chốc mây lại tràn qua che kín đất trời, đến nỗi tôi ngồi cách Chùa Đồng có vài mét mà vẫn không thấy được dáng chùa. Cảm giác lạnh đến rợn người. Trời thẩm tối, mây nhiều quá, âm u và huyền ảo. Có phải vì một kẻ phàm tình đã dám xâm phạm chốn non thiêng? Hay nghiệp dĩ nặng nề chưa cho phép thích nghi một cõi miền hoang dã? Tôi không dám chiều theo ước vọng được đón trăng trên đỉnh phù vân, có lẽ do đói và lạnh. Xuống núi thôi! Mây thoảng ướt những phiến đá chênh vênh trên đường đi xuống, tôi phải băng mây ngàn xuống hoa yên trước khi tối hẳn.

Đêm tịch mịch, ngồi giữa lòng sơn tự đón trăng lên, bình yên và thanh thản quá! Trăng bàng bạc khắp núi rừng, trăng vỡ ra từng âm thanh kỳ diệu như những vỏ đậu nứt nẻ ra dưới nắng trưa hồng. Mây bây giờ là những chiếc thuyền trôi trên dòng lá biếc, lặng lẽ, nhẹ nhàng như trôi trên biển êm lặng sóng. Còn hồn tôi bây giờ là trăng hay là mây? Là biển lá xanh hay bầu trời bát ngát? Tôi nào có biết! Thiên nhiên là một kho tàng kỳ bí, bao la và sâu thẳm, không thể mượn vài tiếng chim đêm, vài âm thanh của cành lay trước gió, của lá rụng hoa rơi mà diễn tả hết được. Đất với trời hòa quyện dưới ánh trăng khuya, ấp ủ, vỗ về đứa con đi hoang từ muôn kiếp. Nhưng vạn đại như mới chỉ một ngày, tôi ngã mình khép mắt cho đêm hoang vu về ngụ hiên chùa.

Tiếng chuông khuya trầm ấm tỏa lan. Tôi mở mắt tỉnh dậy, nghe năm tháng đi về như một giấc chiêm bao.

“Giọt sương đậu mái lương đình

Nửa đêm thức giấc hỏi mình tan chưa?”.

(Thơ Phạm Phú Hải)