Vĩnh Minh Tự Viện

Thursday, Oct 31st

Last update09:58:49 AM GMT

Đường dẫn hiện tại Phật Giáo Phật Giáo và Khoa Học Tỉnh Thức Dưới Cái Nhìn Của Khoa Thần Kinh Học

Tỉnh Thức Dưới Cái Nhìn Của Khoa Thần Kinh Học

Email In PDF

David Rock

Đỗ Hoàng Tùng dịch

Mới đây, Daniel Gilbert (tác giả quyển sách tuyệt vời có tựa là “Stumbling on Happiness”) và Matthew Killingsworth, học trò của ông, đã đưa ra một nghiên cứu khẳng định điều mà tất cả chúng ta vẫn hoài nghi, rằng về mặt tâm thần, hầu hết chúng ta đã làm lãng phí phần lớn thời gian của đời người.

Hóa ra là có tới gần phân nửa thời gian, chính xác là 46,9%, người ta làm cái việc được gọi là “suy nghĩ vẩn vơ”. Họ không chú ý đến cuộc sống bên ngoài hay công việc đang làm, mà họ lại tìm hiểu chính những suy nghĩ của mình. Tiếc thay, việc nghiên cứu trên 2.250 người cho thấy đa phần  các hoạt động  này không làm cho con người cảm thấy hạnh phúc.

Cuộc nghiên cứu đã được thiết kế với mục đích tìm hiểu xem người ta đã có những hoạt động như thế nào trong suốt một ngày, và hoạt động nào khiến họ hạnh phúc  nhất. “Suy nghĩ vẩn vơ” chỉ là một  trong  số 22 hoạt động mà họ có thể liệt kê.

Các nhà nghiên cứu thấy rằng con người hạnh phúc nhất khi họ có quan hệ tình dục, tập thể dục, hoặc trò chuyện. Họ cảm thấy ít hạnh phúc khi nghỉ ngơi, làm việc, hay sử dụng một máy điện toán cá nhân.

Người ta cho biết rằng họ nghĩ ngợi vẩn vơ không dưới 30% thời gian, trong tất cả mọi việc trừ lúc đang có quan  hệ  tình  dục. Nhưng điều  oái oăm  là người ta lại cho biết họ cảm thấy không hạnh phúc khi suy nghĩ vẩn vơ. Chúng ta tiêu tốn gần phân nửa thời gian cho cái việc không làm cho mình hạnh  phúc! Chẳng trách có rất nhiều truyền thống tâm linh và tôn giáo cố khuyến dụ con người “sống trong hiện tại”.

Chẳng hiểu có phải việc người ta suy nghĩ vẩn vơ hóa ra lại là một dấu hiệu dự báo về hạnh phúc tốt hơn so với những  hoạt  động  thực tế mà người ta can dự vào hay không. Cứ hãy chỉ nghĩ về một ngụ ý của khám phá này, rằng nó giải thích tại sao địa ngục trần gian với người này lại có thể là thiên đường với kẻ khác, nếu họ thấy mình tập trung vào công việc.

Tỉnh thức và não bộ

Một cuộc nghiên cứu năm 2007 với chủ đề“Mindfulness meditation reveals distinct neural modes of self-reference” (tạm dịch: “Thiền tỉnh thức cho thấy các chế độ thần kinh khác biệt của sự tự tham chiếu”), do Norman Farb cùng với sáu nhà khoa học khác tiến hành tại Đại học Toronto, đã đặt nền móng cho sự hiểu biết của chúng ta về sự tỉnh thức từ quan điểm của khoa thần kinh học. Farb và các đồng nghiệp của ông đã tìm ra biện pháp nghiên  cứu xem con người trải nghiệm  từng khoảnh khắc của mình  như thế  nào. Họ phát  hiện  rằng  con người tương tác với thế giới bên ngoài theo hai cách hoàn toàn khác nhau, bằng cách sử dụng hai hệ thống khác nhau. Một hệ thống nhằm trải nghiệm cuộc sống của chính mình  liên quan  đến  điều  được gọi là “hệ thống mặc định”, bao gồm phần giữa vỏ não trước trán (medial prefrontal  cortex), cùng với các vùng trí nhớ như đồi hải mã (hippocampus).  Gọi là mặc định vì hệ thống này hoạt động khi không có việc gì khác xảy ra và con người đang nghĩ về chính mình. Giả sử bạn đang ngồi trên mép cầu tàu vào một ngày hè, có một làn gió nhẹ thổi qua mái tóc và bạn đang cầm một ly bia lạnh trong tay; thay vì đón nhận một ngày mới tươi đẹp, có thể bạn thấy mình đang nghĩ về việc sẽ nấu món gì cho bữa ăn tối nay, và liệu bạn có cần phải phí sức để làm vui lòng người bạn đời của mình hay không. Đấy là khi hệ thống  mặc định của bạn đang  hoạt động. Nó liên quan đến việc lập kế hoạch, mơ mộng và ngẫm nghĩ.

Hệ thống mặc định ấy cũng hoạt động khi bạn nghĩ về bản thân hoặc về người khác, nó kết hợp những suy nghĩ ấy thành  một “mẩu chuyện”. Một mẩu chuyện là một dòng dữ kiện có các nhân vật tương tác với nhau theo thời gian. Não bộ lưu trữ những kho thông tin cực lớn về quá khứ của bạn và của những người khác. Khi hệ thống mặc định được kích hoạt, bạn sẽ suy nghĩ về cả quá khứ lẫn tương  lai và tất cả những  người bạn biết, bao gồm cả bản thân bạn, cũng như cái cách mà tấm thảm thông tin khổng lồ ấy đan kết lại với nhau. Vì thế, trong nghiên cứu của Farb, họ gọi hệ thống  mặc định này là mạch “kể lể”.

Khi bạn trải nghiệm cuộc sống thông  qua hệ thống kể lể này, bạn  tiếp nhận  thông  tin từ cuộc sống bên ngoài, xử lý nó thông qua một bộ lọc để xem mọi thứ có ý nghĩa gì, và đưa thêm vào sự giải thích của bạn. Đang ngồi ở cầu tàu mà mạch kể lể hoạt động, thì làn gió mát không phải là một làn gió mát, mà là dấu hiệu cho thấy mùa hè sẽ đến sớm hơn; điều này khiến bạn bắt đầu suy nghĩ về nơi trượt tuyết, và liệu bộ đồ trượt tuyết của bạn có cần phải được lau khô hay không.

Hầu hết  thời gian khi ta tỉnh thức, hệ thống  mặc định hoạt động  mà không cần nhiều nỗ lực để được vận hành. Thực ra hệ thống này không có gì sai trái cả, vấn đề ở đây là ta không muốn tự giới hạn vào việc chỉ trải nghiệm cuộc sống qua hệ thống này.

Nghiên cứu của Farb cho thấy có một  cách hoàn toàn khác để trải nghiệm cuộc sống. Các nhà khoa học gọi nó là một dạng kinh nghiệm trực tiếp. Khi hệ thống kinh nghiệm  trực tiếp  hoạt  động, một  số vùng  não khác nhau trở nên linh hoạt hơn. Các vùng này trước hết có thùy đảo (insula), khu vực liên quan  đến  việc nhận biết các cảm giác của cơ thể. Phần trước của vành đai vỏ não (anterior cingulate cortex), là trung khu điều chỉnh sự chú ý, cũng được kích hoạt. Khi hệ thống kinh nghiệm trực tiếp này hoạt động, bạn sẽ không suy nghĩ về quá khứ hoặc tương lai, về người khác hoặc về chính mình; và bạn cũng không ngẫm nghĩ nhiều. Thay vào đó, bạn sẽ tiếp nhận thông tin dựa vào những cảm giác thực tại. Khi ngồi trên cầu tàu, bạn sẽ chú ý đến sự ấm áp của ánh nắng tác động trên làn da, cơn gió mát luồn qua mái tóc, và ly bia lạnh đang nằm trong tay.

Một loạt các nghiên cứu khác đã cho thấy rằng hai mạch  này, kể lể và kinh nghiệm  trực tiếp, có tương quan nghịch chiều. Nói cách khác, nếu bạn nghĩ về một cuộc họp sắp tới trong khi đang rửa bát đĩa, rất có khả năng bạn sẽ không để ý tới mảnh thủy tinh vỡ và sẽ bị đứt tay, vì khi hệ thống  kể lể được kích hoạt thì trung khu thần kinh thị giác của bạn sẽ kém linh hoạt. Bạn sẽ không nhìn thấy, nghe thấy, hoặc cảm thấy bất cứ điều gì một cách rõ ràng khi bạn chìm trong suy nghĩ. Điều đáng buồn là trong trạng thái ấy, ngay cả hương vị của một ly bia cũng trở nên nhạt nhẽo.tinh thuc

May mắn  thay, kịch bản  này  tác  động  ở cả  hai hướng. Khi bạn  chú tâm  vào các dữ kiện sắp xảy ra, chẳng  hạn  như  cảm  nhận  được  nước  lan trên  bàn tay trong khi rửa mặt, sự linh hoạt của mạch kể lể sẽ giảm. Điều này giải thích tại sao, ví dụ, nếu mạch kể lể của bạn đang làm bạn lo lắng phát điên về một sự kiện căng thẳng  sắp tới, sẽ rất có ích nếu bạn hít thở một hơi thật sâu và tập trung vào thời điểm hiện tại. Lúc đó, mọi giác quan của bạn sẽ “trở nên sống động” hơn.

Nói tóm lại, bạn có thể trải nghiệm  thế giới thông qua mạch kể lể, vốn hữu ích cho việc lập kế hoạch, ấn định mục tiêu, và hoạch định chiến lược. Bạn cũng có thể trải nghiệm  thế giới một cách trực tiếp hơn, cho phép  nhận  biết  nhiều  thông  tin cảm  giác hơn. Trải nghiệm  cuộc sống thông  qua hệ thống  kinh nghiệm trực tiếp cho phép  bạn tiến gần hơn tới thực tại của mọi sự kiện. Bạn tiếp nhận được nhiều thông  tin hơn về các sự kiện xảy ra quanh mình; cũng như các thông tin về những  sự kiện ấy trở nên  chính xác hơn. Việc chú ý nhiều hơn đến các thông  tin thực tại khiến bạn linh hoạt hơn trong cách phản ứng với cuộc sống. Bạn cũng trở nên ít bị giam hãm hơn trong nhà tù của quá khứ, của các thói quen, của những mong đợi hoặc giả định; và khả năng ứng phó của bạn với các sự việc khi chúng xuất hiện cũng sẽ tốt hơn.

Trong thí nghiệm  của Farb, những  người thường xuyên thực tập việc chú tâm đến hai cách nhận thức, qua kinh nghiệm trực tiếp và qua hệ thống  kể lể, như những  người  hành  thiền  thường  xuyên  chẳng  hạn, có sự phân  biệt rõ rệt hơn giữa hai cách này. Vào bất kỳ lúc nào, họ cũng biết được mình đang  sống theo cách  nào, và có thể  chuyển  đổi giữa hai cách  một cách  dễ  dàng… Trong  khi đó,  những  người  không thực  hành  việc chú  tâm  đến  hai  cách  trải  nghiệm này có khả năng  tự động  sống theo  cách kể lể hơn. Điều này không chỉ là lý thuyết. Nghiên cứu của Kirk Brown cho thấy những người ở nấc thang cao hơn của sự tỉnh thức nhận biết rõ hơn về quá trình vô thức của họ. Hơn nữa, họ kiểm soát  nhận  thức tốt  hơn và có nhiều khả năng hơn trong việc diễn đạt những  gì họ làm và nói, so với những  người ở các nấc thang thấp  hơn  của sự tỉnh thức. Nếu bạn  đang  ngồi trên cầu tàu lộng gió và bạn là người ở mức độ tỉnh thức cao, có thể bạn sẽ nhận ra mình đang bỏ lỡ một ngày tươi đẹp để lo lắng cho bữa tối; ngay đó, bạn sẽ chú tâm vào sự ấm áp của ánh mặt trời. Khi bạn thay đổi sự chú ý của mình, bạn thay đổi sự vận hành của bộ não, và điều này có thể tạo ra một ảnh hưởng lâu dài đến cách hoạt động của não bộ.

Tại sao chúng ta cần phải luôn nhớ tỉnh thức

John Teasdale là một  trong  những  nhà nghiên cứu hàng đầu về sự tỉnh thức. Ông giải thích, “Tỉnh thức là một thói quen, một thứ mà khi càng thực hành  người ta càng đạt đến trạng  thái đó mặc dù chẳng cần cố gắng nhiều… Đó là một kỹ năng có thể học hỏi được. Đó là việc tiếp cận một thứ mà ta có sẵn. Sự tỉnh thức không phải là việc khó. Cái khó là nhớ rằng phải tỉnh thức”.

Thực tập, nhưng bạn không cần phải ngồi xuống và hít thở

Như vậy, việc thực  tập  sự tỉnh thức  là điều  quan trọng, đến nỗi từ nay có nhiều khả năng bạn sẽ nhớ đến việc ấy. Chìa khóa để thực hành sự tỉnh thức là chỉ thực hành tập trung sự chú ý của bạn đến một cảm giác trực tiếp, và hãy thường xuyên làm như vậy. Sẽ hữu ích hơn nếu bạn sử dụng một nguồn  dữ kiện phong  phú. Bạn có thể dễ dàng đặt sự chú ý vào cảm giác của bàn chân trên sàn nhà hơn là chú ý vào cảm giác của ngón út của bạn trên sàn nhà, vì với cả một bàn chân, bạn có nhiều dữ liệu hơn để khai thác so với chỉ một ngón út. Bạn có thể thực tập sự tỉnh thức trong khi bạn đang ăn, đang đi bộ, đang  nói chuyện, hay đang  làm những  việc lặt vặt; ngoại trừ việc uống một ly bia dưới ánh mặt trời ấm áp, vì khi ấy, sự tỉnh thức chỉ có tác động trong một khoảng thời gian hạn chế trước sự chú ý của bạn bị hòa tan vào men bia.

Tạo dựng thói quen tỉnh thức không có nghĩa là bạn phải ngồi yên và dõi theo  hơi thở. Bạn có thể tìm ra một cách thực tập phù hợp với lối sống của mình. Bất cứ điều gì bạn  có thể  tiến bộ thông  qua  rèn luyện, bạn hãy thực tập nó. Càng tỉnh thức hơn, bạn càng có những quyết định thích hợp hơn, và bạn sẽ càng thành tựu những  mục tiêu của chính mình hơn, chứ không phải là những mục tiêu mà người khác đặt ra cho bạn.

Và, càng tỉnh thức hơn, bạn càng ít suy nghĩ vẩn vơ hơn; đồng thời, bạn cũng sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn

Nguồn:vanhoaphatgioablog