Pháp khí là những dụng cụ dùng để thực hành các loại pháp sự, để dâng cúng lên chư Phật hoặc các đạo tràng nghiêm trang, hoặc làm dụng cụ trợ ích trong tu tập. Sinh hoạt trong đạo Phật có rất nhiều pháp khí như: Chuông, trống, bảng, khánh, tràng hạt, bình bát, cà sa, tích trượng v.v… mỗi thứ đều có một công dụng và ý nghĩa khác nhau.
I. Những pháp khí thông thường:
1. CHUÔNG:
Theo kinh Tăng A Hàm, quyển 24 Ðức Phật bảo ngài A Nan: “hãy đánh chuông lên để tập họp chúng, nhân ngày rằm tháng 7”. Vậy chuông là một pháp khí để tập họp Tăng Chúng và thức tỉnh Chúng Sinh đã có từ thời Phật tại thế.
Ở Trung Quốc, chuông đã được xử dụng tại các tự viện từ đời nhà Chu (557 trước tây lịch), nhà Tùy (609) “Tục Cao Tăng Truyện: ngài Trí Hưng nhận lo việc chuông tại chùa Thiền Ðịnh ở kinh đô Trường An”. Thế kỷ thứ VI, Hòa Thượng Chí Công khởi xướng, vua Lương Vũ Ðế thực hiện “Hồng chung” cầu nguyện cho các thần thức bị đọa trong chốn U Minh (địa ngục).
Phật Giáo Việt Nam từ trước đến nay thường xử dụng 3 loại chuông:
A. Hồng Chung: Cũng còn gọi là Phạn chung, Hoa chung, Cự chung, Ðại chung.
Chuông này được đúc bằng đồng xanh pha ít sắt. Thông thường chuông cao khoảng 1.50m, đường kính khoảng 6 tấc. Loại này treo trong lầu chuông, mục đích thỉnh chuông là để chiêu tập đại chúng hoặc báo thời sớm tối. Người Việt Nam thường dùng từ “Ðại hồng chung” chỉ cho loại chuông thật lớn, gần như không còn có quy định, có nơi được tính theo tiếng ngân dài của chuông. Như ở Huế: đánh chuông lên, dùng hai tay dăng ra và gập lại vào ngực gọi là một “sải”, làm như vậy cho đến khi tiếng ngân của chuông chấm dứt, được bao nhiêu lần là chuông lớn bấy nhiêu “sải”.
Ðại hồng chung:
1. Dùng công phu khuya sớm: Người thỉnh chung: tay đánh chuông, miệng đọc bài kệ:
Nguyện thử chung thinh siêu pháp giới
Thiết vi u ám tất giai văn.
Văn trần thanh tịnh chứng viên thông,
Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác.
(Hòa thượng Thích Trí Quang dịch: Nguyện tiếng chuông này khắp pháp giới, Thiết vi u ám cũng nghe được. Căn cảnh thanh tịnh chứng viên thông, Hết thảy chúng sanh thành chánh giác).
2. Chuông trống Bát Nhã (đánh theo bài kệ ở sau) và trong các đại trai đàn chẩn tế, thường gọi là Chuông U Minh.
B. Chuông báo chúng:
Cũng còn gọi là Hoán chung, Tiểu chung, Bán chung, kích thước bằng ½, hình dáng giống như Hồng Chung, thường để một góc trong chánh điện, được treo trên giá và di chuyển dễ dàng, để báo hiệu cho quý vị Tăng Chúng biết sắp đến giờ hành lễ và xử dụng trong các buổi pháp hội. Về sau kích thước cũng tùy nghi không hạn định. Về việc thỉnh chung cũng tùy theo địa phương và tông phái, nhưng chung quy cũng biểu thị sự thanh lọc căn trần, vơi đi phiền não, hướng về giải thoát.
a) Chuông gia trì:
Là loại chuông sử dụng chung với mõ để tụng kinh, hành lễ hằng ngày trước bàn Phật. Hình dáng như ½ quả cầu hay một cái tô để ngửa. Việc thỉnh chung
1. TRỐNG:
Trống là một trong những loại nhạc khí, thường làm bằng đá, cây, đồng .v.v . xưa tại Ấn độ, dùng để báo thời gian, cảnh báo. Khi Phật còn tại thế, dùng nó để tập họp Tăng chúng, Bồ tát nghe pháp . . .Ngũ Phần Luật có ghi “Chư Tỳ Kheo Bồ Tát, chúng bất thời tập. Phật ngôn: nhược đả kiền chùy, nhược đả cổ . . .”Trung Quốc ngày xưa dùng nó trong các lễ lộc, vũ hội. Loại hình có lớn, nhỏ, treo hoặc để trên giá. Lớn gọi là “trống tẩu”, nhỏ gọi là “trống ứng”, treo để đánh gọi là “trống treo”.Từ đời nhà Ðường, theo thanh quy thiền môn, trống chỉ là loại pháp khí làm hiệu lệnh để báo thời sớm tối. Về sau Phật Giáo Trung Quốc phối hợp nhịp điệu, âm thanh của trống hoà cùng lời tán tụng phổ thành nhạc điệu gọi là “kỹ nhạc cúng dường, trang nghiêm đạo tràng”. Thời Ðường Hiến Tông năm 820, chuông trống đã được xử dụng rộng rãi trong nghi lễ Phật Giáo (Căn cứ theo bản dịch bài Thiền sư Ðại điên và Hàn Dũ). Việt Nam, trong các chùa thuộc tông phái Ðại Thừa cũng xử dụng trống vào nghi lễ gần giống như Trung Quốc, nhưng âm hưởng, sắc thái thuần túy dân tộc Việt Nam. Có nhiều loại trống, nghi lễ Phật Giáo thường xử dụng hai loại phổ thông:
+) Trống lớn (Ðại cổ): 1- Ðánh chuông trống Bát Nhã:
- Khai: Nhập cùng với chung, bảng (nếu có); Cách đánh trong CD khai kinh Huế: -3 hồi chuông gia trì (gt).- Mộc bảng(M), trống(T)- M T- MT- MTMT- MT-M ( 7M và 6T ) - cgt, M, T- HồngCh, cgt, cgt, M, T- HồngCh, cgt, M, T- xxxx (gõ vành), T- xxxx (gõ vành), T ttttttttt(trống luôn).
Hoặc đánh- nhập hai tiếng (nhị đế dung thông). -3 tiếng tiếp (mỗi lần một tiếng): Quy y Tam Bảo, dứt tam độc (tham, sân, si) -7 tiếng. (Thường gọi chung là một hồi luôn).
b. Bài kệ:
Bát Nhã hội (3 lần)
Thỉnh Phật thượng đường
Ðại chúng đồng văn
Bát Nhã âm
Phổ nguyện pháp giới
Chúng hữu tình
Nhập bát Nhã
Ba La Mật Môn (5 lần, 10 lần)
Bài kệ được Ðệ nhất Tăng Thống Thích Tịnh Khiết và quí Hòa Thượng đồng thời xác tín, chứng minh.
c. Ðánh dứt 4 tiếng (chứng nhập Tứ Ðế): xxxx C-T xxxx C-TT xxxx C-T C
+) Ðánh trống thỉnh Phật, Tổ, Thần (Ðả cổ thông tam giới…)
+) Ðánh trống rước Phật, Xá Lợi, Thần sắc.
B. Trống nhỏ (trống kinh): Ðánh trong lúc tán, tụng kinh…;mới trông qua giống cái trống Cơm, nhưng hơi khác : tiếng dòn và trong hơn, cái đùi đánh trống gọi là roi trống
2. MÕ:
Theo sách Tam Tài Ðô Hội của Vương Tích đời Ðường có đoạn: “Mõ là loại mà
dùng cây khắc thành hình con cá, rỗng bên trong, gõ nó sẽ phát ra tiếng, các hàng Phật tử khi tán tụng đều dùng đến nó”. Mõ có hai loại:
A. Loại dài hình con cá dựng đứng hoặc treo ở các nhà kho, dùng để báo hiệu giờ ăn cơm, tập họp, phổ thỉnh Tăng chúng tại các chùa ngày xưa (sách Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy, chương pháp khí).Loại mõ dài còn thấy xử dụng tại một số đình làng ở miền Trung, Việt Nam để triệu tập dân làng khi cần. (Hiện thấy tại đình làng Dương Nổ, sau năm 1975).
B. Loại hình tròn như vảy cá, trên mõ có khắc chạm hình con cá; dùng để gõ nhịp lúc tụng kinh. Loại này được nói là xuất hiện vào triều đại nhà Minh (Trung Hoa). Theo sách Tham thiền Ngũ Ðài Sơn ký (quyển 3) Tống Thần Tông, Hy Ninh năm thứ 5 ngày 8 tháng 8 ghi: Trong chùa Thanh Thái có thờ tượng Ngài Phó Ðại Sĩ. Mỗi khi ngài muốn gặp các vị tu hạnh Ðầu Ðà nơi cao sơn chỉ gõ mõ, chư vị sau khi nghe mõ ấy liền đến. Sau đó các tự viện dưới chân núi đều dùng mõ để tập họp đại chúng.
Sách Tăng Tu Giáo Uyển Thanh Quy (quyển 3) phần pháp khí, có ghi lại truyền thuyết rằng: “có một vị Tăng do phản thầy, huỷ pháp nên bị đọa làm thần cá, trên lưng con cá ấy lại mọc mấy cái cây, mỗi khi sóng to gió lớn, khiến thân ra máu, thật thống khổ vô cùng. Một lần nọ, vị Thầy Bổn Sư qua biển, nhân đó nó muốn đòi nợ, liền nói rằng: Thầy không dạy bảo nó, nên nó mới phải bị đọa làm thần cá như thế này, do đó nay nó muốn báo oán. Thế rồi, vị thầy ấy bảo cá nên ăn năn sám hối, Thầy ấy cũng vì con cá mà cầu siêu, chú nguyện và ngay đêm đó nó được hóa kiếp. Vị Thầy Bổn Sư liền đem cây ấy đẽo thành hình con cá và treo lên để cảnh tỉnh đại chúng”. Ðó là một lẽ mõ mang hình cá.
Trong Sắc Tu Thanh Quy, chương Pháp Khí nói: “tương truyền cá là loại thức tỉnh suốt ngày đêm, nên khắc hình con cá mà gõ để thức tỉnh những kẻ hôn trầm lười nhác”.
Sách Gia Ngôn nói rằng: “có một người taị gia hỏi một vị Trưởng Lão Thiên Trúc rằng: “Tăng xá đều treo mõ cá là nghĩa làm sao?”. Ðáp: “dùng để cảnh tỉnh đại chúng”. Người tại gia đó lại hỏi: “nhưng vì sao lại cứ phải khắc thành hình con cá?”. Vị Trưởng Lão đó không giải đáp được bèn đến hỏi Sư Ngộ Biện. Sư đáp: “cá đêm ngày không hề nhắm mắt, đó cũng là muốn người tu hành quên ngủ để đến với đạo”.
3. LINH:
Linh là một pháp khí làm bằng đồng thau hay đồng đỏ, dùng để gõ hoặc rung lên khi tụng kinh trước Phật đài. Linh có hai loại:
A. Hình giống như cái bát. Mật tông gọi là Bát Vàng, là loại Thiền tông xử dụng sớm nhất
B. Hình giống như cái chuông nhỏ, bên trong có buộc một viên đồng, có cán có lưỡi, rung lên thì kêu vang. Cán của nó hình từ 1 đến 5 vòng gọi là Linh Chử. Là một loại pháp khí thường xữ dụng để chấn khai địa ngục trong trai đàn chẩn tế và giữ nhịp trường canh trong các buổi tụng kinh. Loại này có tên là Kim Cương Linh. Khi xử dụng có hai cái: một âm và một dương.
4. KHÁNH DẪN:
Hình tròn như cái chén nhỏ, có cán để cầm và dùi để đánh. Thường dùng để thỉnh sư, dẫn chúng niệm Phật kinh hành và giữ nhịp trường canh lúc mới bắt đầu làm lễ.
5. TANG:
Là một pháp khí làm bằng đồng thau, hình tròn, nhỏ bằng cái chén ăn cơm, sâu khoảng 1.50 cm đến 2 cm; phỏng theo hình dáng cái phèn la, buộc thòng vào một vành tròn có cán để cầm bằng 3 sợi dây ở 3 góc đều nhau, dùng một cái dùi bằng tre uốn cong 90 độ để đánh lên khi tán tụng, tang thường thấy xử dụng ở miền trung Việt Nam (Huế).
6. ÐẨU:
Hình thể hoàn toàn giống như Tang, nhưng không có cán cầm, mà chỉ nắm trong lòng bàn tay, cái dùi để đánh hình dáng như một chiếc đũa. Thường xử dụng 2 cái: một âm (trầm), một dương (bổng). Loại này thường thấy ở các tỉnh phía nam Trung phần (Bình Ðịnh trở vào) và Nam phần Việt Nam.
7. PHÁP LOA:
Thường goị là Tù Và làm bằng loại vỏ ốc lớn, phiên âm từ tiếng Phạn là Thương Khu dịch nghĩa là Kha Bối (vỏ con Kha nói tắt của chữ Sankha) tức là vỏ ốc, vỏ sò. Tiếng thổi vào vỏ ốc vang đi rất xa, lấy đó để ví với tiếng thuyết pháp của Ðức Phật vang xa bao trùm khắp đại chúng, tiếng thổi vỏ ốc nghe mạnh mẽ, biểu hiệu sự hùng mạnh của đại pháp. Thế tục dùng vỏ ốc thổi làm hiệu lệnh ba quân, cũng ví như lời thuyết pháp của Ðức Phật có sức mạnh hàng phục ma quỷ. Còn như nghi thức thổi vỏ ốc trong Phật sự; Theo Mật Tông giải thích: vỏ ốc có hình Tam Muội Da cuả Ðức Vô Lượng Âm Phật Ðỉnh Tôn là chẩn mực pháp âm của Ðức Phật, nghe tiếng thổi vào vỏ ốc thì Thiên Thần, Chư Thiên đều hoan hỉ mà hưởng ứng, người thế tục nghe tiếng ốc thì diệt trừ được các tội chướng. Do đó trong hình Ðức Phật Quan Âm nghìn cánh tay, có một tay cầm Pháp Loa.
Tại các chùa ở Huế-Việt Nam thấy còn xử dụng Pháp Loa (Tù Và: vỏ ốc) vào các tang lễ của quý vị Hòa Thượng, Thượng Tọa, Trú Trì…
Phật giáo Tây Tạng thường dùng Pháp Loa khi hành lễ.
8. KHÁNH:
Khánh làm bằng đá, có giá hoặc dây treo, dùng để báo hiệu lệnh trong chuà, hiện tại vẫn còn xử dụng tại các chùa ở Việt Nam.
9. MỘC BẢN:
Làm bằng một miếng gỗ, dùng dùi đánh phát ra tiếng để thông báo giờ giấc. Thường treo ở phòng ăn của các chùa
II. Pháp khí dành riêng cho Chủ Sám và Chứng Minh.
1. THỦ XÍCH:
Là một thanh gỗ hình khối chữ nhật, kích thước vừa nằm dưới ba ngón tay giữa của lòng bàn tay. Trên lưng Thủ Xích có khắc 3 chữ “Án, Dạ, Hồng” theo tự dạng Pali, dùng để vỗ xuống bàn kinh, thành một hiệu lệnh cho đạo tràng.
2. THỦ LƯ:
Là một cái lư hương có cán để cầm tay, tiếng đời nhà Ðường gọi là Thủ Lô. Thích Thị Yếu Lâm quyển trung ghi: “sách Pháp Uyển: Thiên Nhân Hoàng Quỳnh nói về lư hương của Ðức Phật Ca Diếp đại để như sau: Phía trước có 16 con sư tử và voi trắng, trên đầu hai loại thú đó nổi lên hai đài sen làm lư. Phía sau có sư tử ngồi, trên đỉnh có 9 con rồng quấn nâng hoa vàng, hoa đó để làm lư. Trong có Kim Ðài Bảo Tử để đựng hương lúc Phật thuyết pháp thường cầm lư này.So sánh xem xét cách chế tác Thủ Lư đời nay cũng có phần mô phỏng theo phép đó. Trong nghi lễ Phật Giáo Việt Nam, Thủ Lư thường thấy xử dụng trong trai đàn chẩn tế.
3. TÍCH TRƯỢNG:
Tích Trượng là một trong 18 món đồ vật của Nhà Sư, còn được mang nhiều tên khác nhau như: Thanh Trượng, Minh Trượng, Trí Trượng, Ðức Trượng…là một cây gậy, ở đầu gậy có những vòng thiếc, khi rung phát ra tiếng.
Hiển Giáo dùng gậy khi khất thực và đuổi trùng thú. Tì Nại Da Tạp Sự quyển 34 noí: “Bật Sô đi khất thực vào nhà ai, bèn lên tiếng gọi báo cho biết và nắm tay gõ vào cửa, người nhà lấy làm lạ hỏi: “Tại sao lại gõ cửa nhà tôi?” Nhà Sư im lặng chẳng nói. Ðức Phật bảo: “Ðừng gõ cửa, mà nên làm cây gậy Tích Trượng”; Nhà Sư không hiểu, Ðức Phật nói: “Ở đầu cây gậy có gắn những vòng nhỏ bằng cái chén, khi rung gậy thì phát ra âm thanh để báo cho biết”. Khi đến nhà nào không có lòng tin, rung mãi cây Tích Trượng đến phát mệt, mà nhà ấy không ai ra hỏi, thì Ðức Phật bảo: “Không nên rung lâu cây Tích Trượng, chỉ nên rung 2 hay 3 lần mà thôi, nếu không có người ra hỏi, thì nên đi nơi khác”.Cách làm gậy thì y theo Tích Trượng Kinh.
Tích Trượng của Ðức Phật Ca Diếp có 2 gọng và 12 vòng tượng trưng cho 2 đế thứ nhất và thứ hai là Thế Ðế và Thập Nhị Nhân Duyên.Tích Trượng của Ðức Phật Thích Ca có 4 gọng và 12 vòng tượng trưng cho Tứ Ðế và Thập Nhị Nhân Duyên.
Mật Giáo thì cho đó là cây Thập Pháp Giới do 5 Ðại tạo thành, là Tam Muội Da của Ðức Ðịa Tạng, Quan Âm, nên có 6 vòng tượng trưng cho 6 Ðại. Trên đầu gậy có 5 bánh xe hình tròn tượng trưng cho Bảo Tháp. Phật Giáo Việt Nam thấy xử dụng Tích Trượng trong các lễ: Giải Oan Bạt Ðộ, Tang Lễ theo ý nghĩa của Mật Giáo.
4. MŨ TỲ LƯ:
Ngày rằm tháng 7, mở hội Vu Lan Bồn, Vị Tăng Thủ Tọa đứng làm Ðức Phật Tỳ Lư, tụng kinh Thí Thực, trên đầu đội mũ có tượng Phật Tỳ Lư nên gọi là mũ Tỳ Lư.
Tỳ Lư là tên gọi tắt của Tỳ Lư Giá Na, tên chung của Pháp Thân Phật, tức là Ðức Ðại Nhật Như Lai của Mật Giáo.
Phật Giáo Việt Nam, Mũ này các vị Gia Trì Sư thường đội trong Tang lễ hoặc Trai Ðàn Chẩn Tế.
5. MŨ HIỆP CHƯỞNG:
Mũ này giống như hai bàn tay úp lại nên gọi là Hiệp Chưởng, chỉ riêng Phật Giáo Việt Nam mới có, do các vua triều Nguyễn chế ra để tặng cho các vị Tăng cang đội khi vào triều. Sau được dùng phổ cập, các vị Chủ Sám thường đội trong các pháp hội trai đàn.
6. MŨ QUAN ÂM:
Mũ này may theo hình chóp, phủ xuống vai, ngang qua giữa lưng, thường các Ngài Chứng Minh đội trong các lễ đàn.
Sưu Tầm