Vĩnh Minh Tự Viện

Monday, May 06th

Last update09:58:49 AM GMT

Đường dẫn hiện tại Thư Viện Sách Luận Về Mười Hai Duyên Khởi

Luận Về Mười Hai Duyên Khởi

Email In PDF

CHƯƠNG V

LUẬN VỀ MƯỜI HAI DUYÊN  KHỞI

1. LỜI TỰA

Trở lên, tôi đã theo nhân duyên luận để nói về bản chất của hữu tình và những hoạt động tâm lý của nó, do chỗ tạo nghiệp mà phải lưu chuyển v.v… Tóm lại, tất cả các vấn đề kể trên, phàm vấn đề nào thuộc về sự-thực-giới, nhất là về hoạt động của sinh mệnh, tôi đã trình bày xong về cách quan sát đại cương của đức Phật. Duy nhận xét từ tổ chức giáo điều của Phật thì tất cả mọi vấn đề ấy đều bao hàm trong thuyết mười hai nhân duyên, tức là mười hai nhân duyên được chia thành từng đoạn một để quan sát. Như tôi đã nói từ đầu, khi biên soạn cuốn sách này, phương pháp của tôi là lấy vấn đề làm trung tâm chứ không phải lấy giáo điều và sự chú giải giáo điều làm chủ yếu, bởi thế, tuy có chia ra từng loại để trình bày như trên, nhưng, dĩ nhiên, trong khi ấy, vẫn luôn luôn nghĩ đến sự tổ chức của thuyết mười hai nhân duyên. Ðến đây, để đúc kết lại, tôi xin trình bày thêm về mười hai nhân duyên, vì, theo truyền thuyết, khi Phật sắp thành đạo, trong lúc tư duy, thường nghĩ về thuyết này. Trong giáo lý Phật giáo, nó đóng vai trò cực trọng yếu, vả lại cũng rất khó hiểu. Không những chỉ đức Phật dùng tổ chức mười hai nhân duyên để giải quyết một cách thống nhất các vấn đề sống, chết, mà ngay các giáo lý trọng yếu của Ðại Thừa sau này cũng lấy nó làm nền tảng để khai triển. Người nghiên cứu Phật giáo cần phải hiểu rõ ý nghĩa tích cực của nó, do đó, tôi lại phải dành riêng một chương này để thảo luận thêm.

Trước hết hãy điểm qua về danh mục như sau:

1- Vô-minh (avijjà). Dựa vào vô minh mà có

2- Hành (sankhara). Y vào hành mà có

3- Thức (vinnara). Y vào thức mà có

4- Danh sắc (namarupa). Dựa vào danh sắc mà có

5- Lục nhập (salayatana) (cũng gọi là lục-xứ). Y vào lục nhập mà có

6- Xúc (phassa). Y vào xúc mà có

7- Thụ (vedana). Dựa vào thụ mà có

8- Ái (tanha). Y vào ái mà có

9- Thủ (upadana). Y vào thủ mà có

10- Hữu (bhava). Y vào hữu mà có

11- Sinh (jati). Ý vào sinh mà có

12- Lão tử (jaramarapa).

Trên đây là hệ đệ của mười hai duyên khởi. Như sẽ được trình bày sau, mười hai chi này không biết đã được cấu thành một cách đầy đủ ngay từ đầu khi Phật mới thành đạo, hay về sau chỉnh lý dần dần mà thành thì điều đó vẫn còn cần phải thảo luận. Tóm lại, về hình thức mười hai chi thì trong các kinh điển từ Luật Bộ Ðại Phẩm (Mahavagga) cho đến Chi Phẩm (Nidama-Samyutta) Ba-Li-Tương-Ứng-Bộ(1) đại khái đều nhất trí. Lại nữa, về danh từ duyên khởi (Paticcasamuppada, skt Pretityasanmutpada) thì, sau này, giữa các vị luận sư của A-Tỳ-Đạt-Ma tuy có nảy sinh nhiểu thuyết khác nhau, nhưng về ý nghĩa của nó cho là “duyên hợp mà sinh”(2), tức là cái pháp tắc quan hệ vật này dựa vào khác mà tồn tại, thì đại khái cũng đều giống nhau. Vì thập-nhị-nhân-duyên-quan là dựa vào điều kiện lão-tử, sinh (dựa vào sinh và tính là duyên thứ 11) mà thuyết minh cái quan hệ y tồn của nó, và chính do đó mà được mệnh danh là duyên khởi.