Vĩnh Minh Tự Viện

Saturday, Nov 23rd

Last update09:58:49 AM GMT

Đường dẫn hiện tại Phật Học Kinh Tổng Quan Về Bốn Bộ A Hàm

Tổng Quan Về Bốn Bộ A Hàm

Email In PDF

Bốn bộ A Hàm là một kho tàng văn học vô cùng phong phú và sinh động về cả thể loại lẫn nội dung tư tưởng. Toàn bộ kinh văn chứa đựng hầu hết mọi khía cạnh của cuộc sống, từ sự phản ánh hoàn cảnh xã hội Ấn Độ hồi thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, cho đến những tập tục, tư tưởng triết học, tôn giáo, giai cấp... Bốn bộ A Hàm là một kho tàng văn học vô cùng phong phú và sinh động về cả thể loại lẫn nội dung tư tưởng. Toàn bộ kinh văn chứa đựng hầu hết mọi khía cạnh của cuộc sống, từ sự phản ánh hoàn cảnh xã hội Ấn Độ hồi thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, cho đến những tập tục, tư tưởng triết học, tôn giáo, giai cấp... Đặc biệt, A Hàm còn giữ những bài pháp thoại mà đọc lại chúng ta có cảm giác như được nghe chính âm thanh vi diệu của Đức Thế Tôn đang chuyển Pháp luân, đó là những nguyên tắc hành trì, những phương pháp tu tập, những nghệ thuật sống đưa đến hạnh phúc, an lạc và hòa bình cho xã hội trong mọi thời đại.
Hình thức văn học A Hàm gồm có 9 hoặc 12 thể loại, mà xưa nay ta vẫn thường quen gọi là 9 hoặc 12 bộ chân kinh. Một Tỳ kheo biết được 9 hoặc 12 thể loại này được Đức Phật cho là người “biết pháp” (Kinh Thiện Pháp, Trung A Hàm). 9 thể loại đó là:
1. Kinh, Phạn Sùtra, còn gọi là khế kinh, đây là thể loại kinh được nói (hay viết) theo thể văn xuôi mà ta vẫn thường gọi là văn Trường hàng.
2. Trùng tụng, Phạn Geya, còn gọi là ứng tụng, ca vịnh, tương ưng với khế kinh. Sau khi thuyết pháp xong, Đức Phật thường tóm tắt nội dung bài pháp thoại bằng một hoặc nhiều bài thơ, còn gọi là trùng phức hay chỉnh cú.
3. Ký thuyết, Phạn Vyàkarana, còn gọi là ký biệt hay thọ ký, vốn chỉ cho sự giải thoát của giáo nghĩa, sau chỉ những lời Đức Phật ấn chứng cho các đệ tử trong tương lai.
4. Kệ tụng, Phạn Gàthà, còn gọi là cô khởi, toàn bộ đều dùng kệ tụng để ghi lại những lời dạy của Đức Phật. Thể loại này khác với thể ứng tụng ở chỗ ứng tụng chỉ tóm lược nghĩa chính của văn trường hàng, còn kệ tụng thì ghi lại toàn bộ nội dung pháp thoại.
5. Cảm hứng ngữ,Phạn Udàna, còn gọi là tự thuyết. Đức Phật không đợi có người thưa hỏi pháp mới nói, mà tự Ngài khai thị thuyết pháp cho đệ tử.
6. Như thị ngữ (Bổn sự), Phạn Itivrttaka, ghi lại hành trạng kiếp trước của Đức Phật và các đệ tử của Ngài, hoặc những kinh được mở đầu bằng câu “Phật như thị thuyết”.
7. Bổn sanh, Phạn Jàtaka, ghi lại những hạnh đại bi trong những tiền kiếp Đức Phật đã tu hành.
8. Phương quảng, Phạn Vaipulya, tuyên thuyết giáo nghĩa sâu rộng, uyên áo.
9. Vị tằng hữu, Phạn Adbhuta-dharma, ghi lại những sự việc hy hữu của Đức Phật cùng với các đệ tử của Ngài.
10. Nhân duyên, Phạn Nidàna, ghi lại nhân duyên Đức Phật thuyết pháp, giáo hóa, như phẩm Tự của các kinh.
11. Thí dụ, Phạn Avadàna, lấy hình ảnh thí dụ để làm sáng tỏ ý nghĩa của pháp. 12. Luận nghị,Phạn Upadesa, Đức Phật hoặc các đại đệ tử luận nghị, quyết trạch thể tánh của các pháp, phân biệt rõ ràng nghĩa lý.
Trong cả hai truyền thống Nam truyền và Bắc truyền đều có đầy đủ 12 thể loại trên. Với nhiều thể loại văn học như vậy cho chúng ta thấy A Hàm là những tác phẩm văn học đồ sộ và phong phú. Đọc A Hàm, chúng ta không những bị lôi cuốn bởi sự phong phú về thể loại mà còn thấy rất sinh động bởi kinh văn rất giàu hình ảnh. Dù vậy, A Hàm lại ít mang tính chất văn chương mà mang đậm tính thật thà chất phác, phản ánh tính trung thực và nguyên thuỷ những lời Phật dạy. Vì vậy, chúng ta thấy A Hàm mang thể tài của một loại ngôn hành lục, nên khi đọc vào ta có cảm giác như được sống lại trong hội chúng thời Đức Phật còn tại thế!
Nội dung tư tưởng
Phẩm Tựa của Tăng Nhất A Hàm phần nào gợi lại cho chúng ta thấy không khí và diễn biến cuộc đại hội kiết tập kinh điển lần thứ nhất. Đặc biệt, qua lời tuyên bố của ngài A Nan , chúng ta thấy vị trí của kinh này, cũng như các bộ A Hàm khác, là vô cùng quan trọng. A Nan nói: “Tăng nhất A Hàm này xuất giáo nghĩa của ba mươi bảy phẩm đạo, và các pháp cũng từ đây mà phát sinh”. Khi khẳng định vị trí của A Hàm như vậy, Tôn giả Ca Diếp đã hỏi nguyên do, A Nan liền trả lời, và câu trả lời này tóm thâu toàn bộ tư tưởng của A Hàm, cũng như toàn bộ tư tưởng của Phật giáo, trong bốn câu:
Chớ làm các điều ác,
Vâng làm các điều lành,
Tự thanh tịnh tâm ý,
Là lời chư Phật dạy.
Tưởng chừng như quá đơn giản và chẳng có gì, vậy nhưng chính A Nan đã khẳng định và giải thích “sở dĩ như vậy là vì, chớ làm các điều ác, đó là gốc rễ của các pháp, từ đó xuất sinh tất cả các pháp thiện. Do sinh pháp thiện, nên tâm ý thanh tịnh. Cho nên, bạch Ca Diếp, thân, khẩu, ý hành của chư Phật Thế Tôn thường tu thanh tịnh”. Quả nhiên cái đích của Phật giáo hướng đến không phải chỉ dừng lại ở mức làm lành tránh dữ hay bỏ ác làm lành mà còn hướng đến sự tự làm thanh tịnh tâm ý mình. Tâm ý hoàn toàn thanh tịnh ấy chính là quốc độ Phật. Và để đạt được điều đó, không còn cách nào khác hơn là phải học pháp, tức giáo nghĩa ba mươi bảy phẩm đạo và các pháp khác.
A Hàmtập hợp tất cả những giáo lý căn bản của Phật giáo, như Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Ngũ uẩn giai không, Nghiệp cảm luân hồi, Tứ niệm xứ, Bát chánh đạo... là nền tảng căn bản mà từ đó các hệ kinh điển Đại thừa được hình thành. Nếu như đối với các giáo lý trong A Hàm mà không hiểu được chính xác thì không thể nào lãnh hội được giáo lý Đại thừa.
A Hàmkhông những chứa đựng những phương pháp tu tập cụ thể, rõ ràng đưa đến giác ngộ giải thoát như Khổ, Vô thường, Vô ngã, Nhân duyên sanh pháp, Ngũ thủ uẩn, Tứ thiền..., mà còn bao hàm các phạm trù xã hội, luân lý, đạo đức, phong tục... rất phong phú, qua đó phản ánh tư tưởng của Phật giáo tác động và ảnh hưởng đến đời sống xã hội rất lớn, chẳng hạn những kinh nói đến chế độ bốn giai cấp cho ta thấy được tinh thần bình đẳng của Phật giáo, xem những ghi chép về các nghi thức tế lễ, nhân đó thấy được tinh thần phá trừ mê tín của Phật giáo...
Khảo sáng bộ
1. Trường A Hàm
Kinh Trường A Hàm, tiếng Phạn là Dìrghàgama, gồm 22 quyển, do Phật Đà Da Xá (Buddhayasas, Tăng nhân nước Kế Tân, Bắc Ấn Độ) và Trúc Phật Niệm (người Lương Châu, Cam Túc, Vũ Uy) dịch từ Phạn sang Hán vào đời Hậu Tần, niên hiệu Hoằng Thỷ thứ 15 (413 TL), hiện lưu trong Đại tạng kinh Đại Chính tân tu (ĐTK/ĐCTT), tập 1, số 1, trang 1-149. Theo luật Tứ phần quyển 54, luật Ngũ phần quyển 30, luận Du già sư địa quyển 85 v.v... thì kinh này tập hợp những bài pháp thoại dài của Đức Thế Tôn mà thành. Tát-bà-đa tỳ-ni tỳ-bà-sa (Sarvàstivàda vinaya vibhàsà) quyển 1, cho rằng kinh này chuyên đả phá các ngoại đạo nên gọi là Trường A Hàm. Luận Phân biệt công đức quyển 1, thì giải thích, trường là trình bày những sự việc xa xưa, trải qua nhiều kiếp. Đọc lại Trường A Hàm thì biết rằng đây đúng là những bài pháp thoại rất dài, trình bày nhiều vấn đề, nhiều ý nghĩa sâu xa, chứa đựng nhiều giáo lý căn bản...
Về sự truyền thừa của Trường A Hàm, theo Pháp Hoa kinh huyền tán quyển 1, Hoa Nghiêm kinh sớ sao huyền tán quyển 8... thì bốn bộ A Hàm đều do Đại chúng bộ truyền. Nhưng Câu xá luận kê cô quyển thượng, thì cho rằng Trường A Hàm do Hóa địa bộ truyền. Theo các công trình nghiên cứu của các học giả Nhật Bản thời hiện đại, thì Trường A Hàm do Pháp tạng bộ (Dharmagupta) truyền. Thuyết này được nhiều công trình nghiên cứu của các học giả trên thế giới đồng thuận.
Trong ĐTK/ĐCTT, từ số 2 đến 25, là những bản Hán dịch lẻ tẻ (đơn bản) các kinh thuộc Truờng A Hàm. Đây là những bản kinh thuộc nhiều bộ phái khác nhau, do đó nội dung chứa đựng ít nhiều dị biệt. Trường A Hàm mà chúng tôi sẽ giới thiệu là bản Hán dịch Trường A Hàm kinh 22 quyển, do Phật Đà Da Xá tuyên đọc thuộc lòng bản Phạn, và Trúc Phật Niệm truyền dịch sang Hán văn, Việt dịch Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, năm 1991, Đại tạng kinh Việt Nam, ký hiệu A a1, trọn bộ 2 tập. Bạn đọc có thể tham khảo thêm từ trang nhà www.phatviet.com bản Việt dịch của TT. Tuệ Sĩ.
22 quyển Trường A Hàm có 30 kinh, chia thành bốn phần. Phần một có 4 kinh, nói về sự tích của chư Phật và các vấn đề liên quan. Phần hai có 15 kinh, trình bày các phương pháp, nguyên tắc tu tập và cương yếu giáo lý Phật thuyết. Phần ba có 10 kinh nói về các vấn nạn của ngoại đạo và những dị thuyết. Phần bốn có 1 kinh, chia thành 12 phẩm, nói về tướng trạng khởi nguyên của vũ trụ.
Kinh Trường A Hàm tương đương với kinh Trường Bô (Dìgha-Nikàya) thuộc hệ thống kinh tạng Nam truyền. Kinh Trường Bộ có 3 phẩm, tổng cộng 34 kinh, trong đó có 29 kinh tương đương với Trường A Hàm.
2. Trung A Hàm
Kinh Trung A Hàm, tiếng Phạn là Madhyamàgama, có 60 quyển, 222 kinh, do Tăng Già Đề Bà (Samghadeva, người nước Kế Tân, Bắc Ấn) và Tăng Già La Xoa (Samgharaksa, người nước Tu Lại, Tây Bắc Ấn) dịch từ Phạn sang Hán vào đời Đông Tấn, niên hiệu Long An thứ 2 (398 TL), hiện lưu trong ĐTK/ĐCTT, tập 1, số 26, trang 421-809. Các kinh từ số 27 đến 98 là các bản dịch lẻ tẻ (đơn bản) của các kinh thuộc Trung A Hàm. Bản tiếng Việt, Đại tạng kinh Việt Nam, ký hiệu A a2, Viện Cao đẳng Phật học Hải Đức Nha Trang dịch, Nhà Xuất bản Tôn Giáo, trọn bộ 4 tập.
Luận Phân biệt công đức quyển 1, giải thích chữ trung có nghĩa là không lớn không nhỏ, không dài không ngắn, Trung A Hàm là tuyển tập những kinh không dài không ngắn. Bản kinh này ghi lại những lời dạy căn bản nhất của Đức Phật cho các đệ tử xuất gia cũng như tại gia.
Về sự truyền thừa và đối chiếu với kinh Trung Bộ thuộc Nam tạng, xin xem luận án tiến sĩ của HT. Thích Minh Châu trong cuốn So sánh kinh Trung A Hàm chữ Hán và kinh Trung Bộ chữ Pàli do Ni sư Trí Hải dịch Việt.
Kinh Trung A Hàm gồm 60 quyển, chia thành 5 tụng, 18 phẩm. 5 tụng là Sơ tụng, Tiểu độ thành tụng, Niệm tụng, Phân biệt tụng và Hậu tụng. 18 phẩm gồm: 1. Phẩm Bảy pháp, gồm 10 kinh; 2. Phẩm Nghiệp tương ưng, gồm 10 kinh; 3. Phẩm Xá Lê Tử tương ưng, 11 kinh; 4. Phẩm Vị tằng hữu pháp, 10 kinh; 5. Phẩm Tập tương ưng, 16 kinh; 6. Phẩm Vương tương ưng, 14 kinh; 7. Phẩm Trường thọ vương, 15 kinh; 8. Phẩm Uế, 10 kinh; 9. Phẩm Nhân, 10 kinh; 10. Phẩm Lâm, 10 kinh; 11. Phẩm Đại, 25 kinh; 12. Phẩm Phạm chí, 20 kinh; 13. Phẩm Căn bản phân biệt, 10 kinh; 14. Phẩm Tâm, 10 kinh; 15. Phẩm Song, 10 kinh; 16. Phẩm Đại (Hậu tụng),10 kinh; 17. Phẩm Bổ-lợi-đa, 10 kinh; 18. Phẩm Lê, 11 kinh.
Kinh này ghi lại nhiều bài pháp thoại của Đức Phật và các đệ tử của Ngài, thỉnh thoảng cũng có những lời giáo giới của Đức Phật cho các đệ tử, các bậc vương giả, cư sĩ và ngoại đạo.
3. Tạp A Hàm
Tạp A Hàm, tiếng Phạn là Samyuktàgama, 50 quyển, do Cầu Na Bạt Đà La (Gunabhadra, người Trung Ấn độ, 394x468 TL) dịch sang tiếng Hán vào đời Lưu Tống (435 TL), hiện được xếp vào ĐTK/ĐCTT, tập 2, kinh số 99, trang 1-303. Từ số 100-124 là các bản biệt dịch Tạp A Hàm và đơn bản thuộc Tạp A Hàm. Bản tiếng Việt, Đại tạng kinh Việt Nam, ký hiệu A a3, HT. Thích Thiện Siêu, HT. Thích Thanh Từ dịch, Nhà Xuất bản Tôn Giáo, trọn bộ 4 tập.
Theo Ngũ phần luật, quyển 30, Tứ phần luật quyển 54..., kinh này do Đức Phật nói cho nhiều đối tượng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, Thiên tử, Thiên nữ về các pháp Tứ Thánh đế, Bát chánh đạo, Thập nhị nhân duyên... nay biên tập thành một bộ, nên gọi là Tạp A Hàm. Ma ha tăng kỳ luật quyển 32, nói rằng kinh này văn cú phức tạp, cho nên gọi là Tạp A Hàm. Ngoài ra, Tát-bà-đa tỳ-ni tỳ-bà-sa quyển 1, nói kinh Tạp A Hàm xiển dương các loại thiền định, là pháp môn mà người tọa thiền phải học tập. Du già sư địa luận quyển 85, thì nói do tất cả mọi sự đều tương ưng với giáo, tập hợp tất cả nghĩa lý đó lại thành một bộ, gọi là Tạp A Hàm. Căn cứ vào Đại Chính tạng, kinh này có 50 quyển, 1362 kinh, nội dung tương đương với Tương Ưng Bộ (Samyutta-nikàya, gồm 5 tụ, 56 thiên, 203 phẩm, 2858 kinh) bản Pàli của Nam truyền Phật giáo. Đây là bộ kinh lớn nhất và cũng được hình thành sớm nhất trong bốn bộ A Hàm. Nếu phân loại theo tính chất, toàn kinh có thể chia thành ba bộ phận lớn.
1. Tu-đa-la (sùtra), nội dung gồm các kinh trình bày về Uẩn, Xứ, Duyên khởi, Thực, Đế, Giới, Niệm, Trụ...
2. Kỳ-dạ (geya), là những kinh có lời vấn đáp được trình bày bằng thể loại kệ tụng.
3. Ký thuyết (vyàkarana), những lời của Đức Phật và các đệ tử của Ngài thuyết.
Ba bộ phận trên đây tương đương với Sở thuyết, Sở vi thuyết, Năng thuyết được nói đến trong Du già sư địa luận quyển 85.
Kinh Tạp A Hàm còn bảo tồn phong cách của Phật giáo nguyên thủy, tuy vẫn có những phần do đời sau thêm vào, nhưng hầu hết đều được thành lập vào thời kỳ rất sớm. Văn phong của kinh này rất đơn giản, câu cú rõ ràng, chứa đựng nhiều pháp môn tu hành rất thực tiễn. Chẳng hạn như các phẩm nói về Niệm trụ, Uẩn, Giới... Từ những đoạn đối đáp giữa Đức Phật và các đệ tử hiển hiện ra Tứ song, Bát bội, y vào Bát chúng mà nói “Chúng tương ưng”, nghĩa lý ấy khiến cho hàng tại gia, xuất gia, nam nữ, lão ấu, các đại đệ tử đều có thể lãnh thọ được sự lợi ích của giáo pháp.
Các học giả cận đại nghiên cứu về bốn bộ A Hàm rất nhiều. Đầu tiên là các học giả phương Tây, sau đó là các học giả Nhật Bản tiến thêm một bước trong phương pháp luận cứu. Thành quả đạt được tuy rất to lớn, nhưng chủ yếu là văn bản Pàli, vì họ cho rằng đó mới là ngôn ngữ Thánh điển nguyên thủy. Vì các bộ Hán dịch A Hàm pho quyển quá nhiều, thiên chương trùng phức, từ ngữ mâu thuẫn, văn dịch vụng về, nên không được phổ cập. Sau khi các nhà nghiên cứu Phật học Trung Quốc thời cận đại nhận thức được giá trị của kinh điển A Hàm mới bắt đầu có xu hướng khảo cứu tư tưởng A Hàm. Chẳng hạn như Tạp A Hàm, bản hiện nay do nội dung chưa hoàn chỉnh, thứ tự lộn lạo, thất lạc, kinh văn khó hiểu, cho nên các học giả cận đại mới chỉnh lý lại kinh này. Trước mắt, có 2 bản mới là kinh Tạp A Hàm do Phật Quang Sơn xuất bản và Tạp A Hàm kinh luận hội biên của Ấn Thuận. Bản Tạp A Hàm của Phật Quang Sơn sử dụng hình thức chấm câu mới và phân đoạn rõ ràng, chú trọng đối chiếu với các bản Pàli, Hán dịch cùng với các bản dị dịch khác, phân định lại thứ tự số quyển, ở mỗi kinh nhỏ đều có giải thích ý kinh, những chỗ kinh văn khó hiểu thì cẩn thận bổ chính thêm văn Pàli để đối chiếu hoặc dịch ra Trung văn (Bạch thoại). Ngoài ra, điểm đặc sắc của bản này còn được nhìn thấy qua cách hiệu đính nghiêm túc, chú giải rõ ràng, dẫn chứng đầy đủ. Tạp A Hàm kinh luận hội biên của ngài Ấn Thuận thì lấy kinh Tạp A Hàm đối chiếu với luận Du già sư địa, đồng thời dùng phương pháp cổ lệ của Ấn Độ để phân loại nội dung, mà không dùng cách phân quyển như các bản kinh Hán dịch truyền thống. Ấn Thuận hội biên Tạp A Hàm thành 7 tụng 51 tương ưng.
4. Tăng nhất A Hàm
Kinh Tăng Nhất A Hàm, tiếng Phạn là Ekottarikàgama, gồm 51 quyển, do Cù Đàm Tăng Già Đề Bà (Samghadeva) dịch vào đời Đông Tấn (có lẽ trong khoảng thời gian 391-397 TL), hiện nằm trong ĐTK/ĐCTT, tập 2, số 125, trang 549-830. Các kinh từ số 126 đến 151 là các bản dịch lẻ tẻ thuộc Tăng Nhất A Hàm. Bản tiếng Việt, Đại tạng kinh Việt Nam, ký hiệu A a4, HT. Thích Thanh Từ dịch, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, trọn bộ 3 tập.
tên gọi của bổn kinh, theo Thiện kiến luật Tỳ-bà-sa quyển 1, Ngũ phần luật quyển 30, Tứ phần luật quyển 54... thì do kinh này tập hợp các bài pháp thoại có nói đến pháp số, tuần tự sắp xếp từ 1 pháp đến 11 pháp, theo thứ tự tăng dần như vậy nên gọi là Tăng nhất. Tát bà đa tỳ ni tỳ bà sa, quyển 1, còn cho rằng kinh này Đức Phật vì chư Thiên, người đời... tùy thời mà thuyết pháp. Thuyết này không được chính xác lắm!
Toàn kinh được phân thành 52 phẩm, tổng cộng 472 kinh. Mở đầu là phẩm Tự, trình bày sơ lược diễn biến đại hội kết tập, A Nan tụng kinh, và nhân duyên A Nan truyền pháp cho Ưu Đa La. Tiếp là các phẩm sắp xếp kinh thứ tự theo số pháp, từ 1 đến 11 pháp. 1 pháp có 13 phẩm, 2 pháp có 6 phẩm, 3 pháp có 4 phẩm, 4 pháp có 7 phẩm, 5 pháp có 5 phẩm, 6 pháp có 2 phẩm, 7 pháp có 3 phẩm, 8 pháp có 2 phẩm, 9 pháp có 2 phẩm, 10 pháp có 3 phẩm, 11 pháp có 4 phẩm. Trong đó, cứ sau mỗi kinh hay sau mỗi phẩm đều có bài tụng tóm tắt đại ý của mỗi kinh hay mỗi phẩm. Các bản Tăng Nhất A Hàm của Tống, Nguyên, Minh đều ghi nhận có 52 phẩm, 50 quyển. Còn trong Đại tạng của Cao Ly thì kinh này có 50 phẩm, 51 quyển.
Về pháp số của kinh này, có hai thuyết. Thuyết thứ nhất cho rằng kinh này vốn có đến 100 pháp, sau vì quên mất nên chỉ còn lại 10 pháp (theo Ma ha tăng kỳ luật quyển 32, A tỳ đàm Tỳ bà sa luận quyển 10, Hữu bộ Tỳ nại da tạp sư quyển 39...). Thuyết thứ hai căn cứ vào Ngũ phần luật quyển 30, Tứ phần luật quyển 54, Tuyển tập Tam tạng và Tạp Tạng truyện, Phân biệt công đức luận quyển 2,... cho rằng kinh này thứ tự sắp xếp từ một đến 11 pháp, tổng cộng có 11 pháp. Thuyết này phù hợp với kinh Tăng Nhất A Hàm hiện còn.
Trong năm bộ Nikàya, thì kinh này tương đương với Tăng Chi Bô (Anguttara- nikàya). Tăng Chi Bô có 11 tụ, 171 phẩm, 2203 kinh, (nhưng con số này cũng chưa thống nhất), trong đó có 136 kinh tương đương hoặc có thể đối chiếu so với Tăng Nhất A Hàm (theo The Four Buddhist Àgamas in Chinese). Nhưng trong Phật Quang Đại tạng kinh, phần đề giải kinh Tăng Nhất A Hàm cho biết có 153 kinh của Tăng Nhất A Hàm tương đương hoặc gần tương đương với Tăng Chi Bộ.
Về sự truyền thừa, theo luận Phân biệt công đức, kinh này được truyền từ Nhất thiết hữu bộ. Dịch giả của kinh này xuất thân trong địa bàn truyền giáo của Nhất thiết hữu bộ, cho nên thuyết này cũng rất có lý. Nhưng kinh này lại mang đậm sắc thái Đại thừa, nên ngài Từ Ân cho rằng kinh này được truyền từ Đại chúng bộ. Theo học giả Lương Khải Siêu, kinh này do Nhất thiết hữu bộ truyền, sau đó được bổ sung bởi các bản của Đại chúng bộ.
Kết luận
Bốn bộ A Hàm là một kho tàng văn học vô cùng phong phú và sinh động về cả thể loại lẫn nội dung tư tưởng. Toàn bộ kinh văn chứa đựng hầu hết mọi khía cạnh của cuộc sống, từ sự phản ánh hoàn cảnh xã hội Ấn Độ hồi thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, cho đến những tập tục, tư tưởng triết học, tôn giáo, giai cấp... Đặc biệt, A Hàm còn giữ những bài pháp thoại mà đọc lại chúng ta có cảm giác như được nghe chính âm thanh vi diệu của Đức Thế Tôn đang chuyển Pháp luân, đó là những nguyên tắc hành trì, những phương pháp tu tập, những nghệ thuật sống đưa đến hạnh phúc, an lạc và hòa bình cho xã hội trong mọi thời đại.
Thật vậy, chính vua Ba Tư Nặc đã bày tỏ niềm kính tin Tam bảo như vầy: “Bạch Thế Tôn, khi con ngồi trên đô tọa, con nhìn thấy mẹ tranh chấp với con, con tranh chấp với mẹ; cha tranh chấp với con, con tranh chấp với cha; cho đến anh em, chị em, thân bằng quyến thuộc tranh chấp lẫn nhau. Trong khi tranh chấp, mẹ nói con xấu, con nói mẹ xấu, cha con, anh em, chị em, thân bằng quyến thuộc nói xấu lẫn nhau. Người thân thích trong nhà còn như thế, huống nữa là người ngoài. Còn ở đây, con thấy chúng Tỳ kheo, đệ tử của Thế Tôn theo Thế Tôn tu hành phạm hạnh. Hoặc nếu có Tỳ kheo nào gây ra ít nhiều tranh chấp, xả giới bỏ đạo cũng không nói xấu Phật, không nói xấu Pháp, không nói xấu chúng Tăng, mà chỉ tự chê trách rằng: Tôi xấu xa, thiếu đức hạnh” (Kinh Trung A Hàm). Đây chính là niềm tin vào một cộng đồng thanh tịnh và hòa hợp, cùng học và cùng tu như nước với sữa. Một tổ chức tu học như vậy quả là niềm tin và hy vọng cho con người giữa cảnh đời nhiệt náo này.
Đọc lại A Hàm chúng ta không những chỉ đồng thuận với nhận xét của vua Ba Tư Nặc, mà còn nhận ra rằng, sự cống hiến của những bài học trong đó cho cuộc đời này, nhất là đối với xã hội đương đại, còn nhiều hơn thế, về mọi lãnh vực, từ kinh tế - chính trị, đến những bài thực nghiệm tâm linh, qua đó ai cũng lãnh thọ được lợi ích, cho bản thân mình, cho gia đình và xã hội.

Ban Hoằng Pháp