Tự Lực Tha Lực

In

Để vấn đề tự lực và tha lực được sáng tỏ, ý nghĩa của phương tiện và cứu cánh cần được đồng thời thảo luận. Thí dụ như tôi muốn đi đến thành phố A, tôi cần phải có hai chân, hoặc tốt hơn nữa tôi có một chiếc xe hơi. Hai chân tôi hay chiếc xe của tôi là phương tiện để đưa tôi đến thành phố A đúng như ý muốn của tôi. Sự đến được thành phố A là cứu cánh.Nếu tôi lại được một người khác cõng đi, hay họ lấy xe của họ chở tôi đi đến thành phố A đúng theo ý của tôi muốn, thì tôi đến được thành phố A như thế là cứu cánh, còn người kia hay chiếc xe là phương tiện.

 

 

Qua hai thí dụ trên chúng ta đưa ra ý nghĩa căn bản về phương tiện và cứu cánh như sau: phương tiện là cách thức cụ thể và thuận tiện để đạt đến cứu cánh. Song cứu cánh là gì đây? Cứu cánh là mục tiêu mà ý muốn đề ra, ý muốn mong đạt đến để được thỏa mãn. Như thế, phương tiện sẻ có ý nghĩa chính xác hơn là: phương tiện là cách thức cụ thể và thuận tiện nhằm làm thỏa mãn một ý muốn nào đó.

Cũng qua hai thí dụ trên chúng ta thấy rõ là phương tiện còn có ý nghĩa là thực hành hay thực hiện nữa, hay đúng hơn, phương tiện là giai đọan thực hành hay thực hiện. Song ai thực hành đây? Chính là tôi thực hành. Và thực hành cái gì vậy? Thực hành cái ý muốn của tôi. Làm sao mà ý muốn của tôi lại thực hành được? Là nhờ qua các phương tiện như hai chân tôi, xe tôi v.v...mà ý muốn của tôi được thực hành. Thực hành như thế để làm gì? Để đạt đến mục tiêu mà ý muốn của tôi đề ra, có nghĩa là để ý muốn của tôi được thỏa mãn, được toại nguyện, cũng có nghĩa là tôi đạt đến được cứu cánh vậy.

Trong giai đoạn thực hành ý muốn qua các phương tiện như thế, tôi có thể hoặc là tự ra sức thực hành như thí dụ một, nghĩa là tôi đi đến thành phố  A bằng hai chân của tôi bằng cách lái xe của tôi, hoặc là tôi mượn vào sức của người khác như thí dụ hai, là nhờ người khác cõng đi hay di nhờ xe của họ. Nêú tôi tự ra sức thực hành để đạt đến mục tiêu cứu cánh đúng như ý, thông thường gọi là "tự lực". Còn nêú cũng để đạt đến mục tiêu cứu cánh đúng như ý, song lại nhờ qua sức lực của người khác, thì được gọi là "tha lực".

Vậy chúng ta định nghĩa "tự lực" là như thế nào đây? Theo như nhận xét trên, thì "tự lực" là tự xử dụng các phương tiện "của tôi" để đạt đến mục tiêu nhằm thỏa mãn ý muốn của tôi. Phải chăng bắt buộc các phương tiện mà tôi xử dụng phải là "của tôi" như là "hai chân của tôi", "xe của tôi", thì khi ấy mớ được nói là "tự lực"? Nêú đúng vậy thì khi tôi nhờ một người khác cõng tôi đi, mà người ấy lại là "con của tôi" hay "đầy tớ của tôi", thì trường hợp này tôi vẫn là "tự lực" đi lấy vậy!

Nêú cho rằng phương tiện mà tôi xử dụng phải thuộc về "thân của tôi" thôi, thì mới được gọi là "tự lực". Còn khi đã nhờ đến các phương tiện ngoài thân thì đều không thể nói là "tự lực" được. Như thế, chỉ có khi nào tôi đi bằng hai chân của tôi thì mới gọi là "tự lực", còn ngay cả khi tôi lái "xe của tôi" đi nữa, thì thật ra là lực của xe đi chớ không phải là lực của tôi vậy. Nêú chấp là như thế, thì "tự lực" không bao giờ thực hành được bất cứ gì nữa. Vì lúc đó để "tự lực" đi, tôi phải bỏ hết giầy dép, tôi phải bỏ luôn cả con đường, vì giầy dép và con đường đều là các phương tiện ngoài thân để giúp tôi đạt đến cứu cánh nhằm thỏa mãn ý muốn của tôi. Mà nếu bỏ hết mọi thứ phương tiện ngoại thân như con đường, bản chỉ đường v.v..., thì làm sao tôi đi đến mục tiêu cứu cánh được nữa?

Do đó chúng ta không thể định nghĩa "tự lực" theo lối cực đoan là chỉ giới  hạn "tự lực" vào chính thân lực của mình mà thôi được. Chúng ta có ra sức ra "lực" là để đạt đến mục tiêu cứu cánh nhằm để thỏa mãn ý muốn của mình. Và "lực" bắt buộc phải áp dụng vào phương tiện mới phát sinh tác dụng được. Thí dụ như tôi muốn đi, tức là phương tiện, khi hai chân của tôi bước đi theo ý muốn của tôi, thì lúc đó mới được gọi là "lực".

Như thế, "lực" không phải chỉ giản dị là các hoạt động của bản thân tôi, mà "lực" chính là sự thúc đẩy, "sai bảo", hay chính là một năng lực. Năng lực này đòi hỏi phải thỏa mãn bằng cach thúc đẩy, sai bảo, hay đúng nhất là nó xử dụng tất cả mọi phương tiện nào có được, để đạt đến mục tiêu cứu cánh nhằm thỏa mãn chính nó.

Nêú ta đã sát định được rằng "lực" là ý muốn, tức "tư" (cetana) một tâm sở trong Phật pháp, thời "tự lực" có nghĩa là "ý muốn của chính tôi". Khi tôi thật sự có ý muốn về một điều nào đó, ý muốn này trở thành một năng lực của chính tôi. Nó sử dụng tất mọi phương tiện. Lúc ấy thân và khẩu của tôi cho đến mọi sự vật ngoại giới đều được coi là phương tiện cho ý muốn hoạt động để đạt đến cứu cánh nhằm nó đươọc thỏa mãn. Ví dụ như một kẻ muốn ăn trộm tiền. Ý muốn ấy thúc đẩy, sử dụng thân khẩu của hắn, nó sử dụng luôn cả dây leo, dao , súng, đèn pha, đến cả ban đêm, bóng tối, giấc ngủ sai của mọi người v.v... Mọi thứ đều trở thành phương tiện cho ý muốn ấy hoạt động để sao cho đạt được số tiền nhằm thỏa mãn ý muốn ấy, lúc ấy coi như cứu cánh hoàn tất.

Như vậy "tự lực" hay "tha lực" ở đây sẻ không dựa theo tiêu chuẩn là chính bản thân mình làm hay là nhờ qua người khác làm để định nghĩa nữa, mà "tự lực" hay "tha lực" sẻ được định nghĩa theo tiêu chuẩn là "Ý muốn của mình" hay "Ý muốn của người khác".

Nêú công việc ăn trộm là đúng thật ý muốn của tôi, thì lúc đó mọi hoạt động ăn trộm của tôi sẻ thuột về "tự lực". Còn nêú nó hoàn toàn không phải là ý muốn của tôi, mà hoàn toàn do ý muốn của ông chủ tôi sai sử tôi làm, thì lúc đó ý muốn của ông chủ tôi là "lực" chính. Thân tâm tôi và mọi hoạt động ăn trộm của tôi chỉ là phương tiện của ý muốn của ông chủ tôi. Lúc đó hoạt động ăn trộm của tôi thuộc về "tha lực" chớ không phải "tự lực" nữa. Bằng chứng là nêú ông chủ của tôi ngưng ý muốn của ông ta lại, nghĩa là ông rút hết "lực" của ông về, thì tôi cũng sẻ ngưng hết mọi hoạt động ăn trộm ngay.

Vậy nêú khi việc ăn trộm kia hoàn tất, ông chủ cảm thấy thỏa mãn, trong khi tôi không thấy thích thú gì cả, thì cũng là gì ông chủ có ý muốn ăn trộm nên ăn trộm xong thấy thỏa mãn, còn tôi không có ý muốn ấy nên không thấy có gì thỏa mãn. Như vậy ông chủ đạt được đến cứu cánh, còn tôi thì chỉ là một phương tiện cho ông đạt đến cứu cánh mà thôi. Coi như trong trường hợp này ông chủ là ăn trộm bằng "tự lực", còn tôi ăn trộm bằng "tha lực". Cũng chíng vì thế nên trong giáo luật của đao. Phật dù tự mình không ra tay làm ác mà sai khiến người khác làm ác. Việc ác hoàn tất thì chính mình là người chịu tội chính, nghĩa là cũng coi như chính mình tự làm vậy.

Tóm lại, bất kể là tôi hành động, sử dụng các phương tiện ra sao, không cần biết, chỉ miễn các hành động ấy xuất phát từ ý muốn của chính tôi, thì coi như các hành động đó là "tự lực". Còn nêú không xuất phát từ ý muốn của tôi mà từ ý muốn của người khác, thì coi như các hành động ấy là "tha lực".

Tiếp đến là các trường hợp "tự lực" và "tha lực" phối hợp cùng nhau, như tôi và người phụ tá của tôi hợp tác cùng muốn thực hành một công việc. Công việc này thành tựu, cả hai đều đạt đến mục tiêu cứu cánh là hoàn toàn thỏa mãn. Trong trường hợp này tôi là chủ chốt và nắm rõ vấn đề; người phụ tá chỉ là phụ giúp tôi theo sự hướng dẫn của tôi, thế nên chỉ là một "tha lực" phụ thuộc. Song gặp trường hợp tôi mong muốn truyền nghề lại cho tôi. Song vì tôi chưa có một chút căn bản nào hết, thế nên "tha lực" của vị thầy ở đây rất quan trọng và chính yêú đố với "tự lực" của tôi. "Tự lực" của tôi ở đây giản dị chỉ là hết lòng tin tưởng thầy, phục vụ thầy, nghe lời thầy. Lúc đó mọi hoạt động học hỏi của tôi gồm có "tự lực của tôi hoạt động qua sự lắng nghe theo dõi chăm chú thâu nhận mọi lời giảng giải của thầy, và "tha lực" của thầy là hoạt động qua sự giảng giải trình bày tất cả các kiến thức về nghề nghiệp của ông. Trong trường hợp này "tha lực" quan trọng hơn hết và đóng vai trò chính, trong khi "tự lực" chỉ là tùy thuận theo "tha lực" mà thôi.

Chúng ta nên phân rõ hai trường hợp về "phương tiện" và "tha lực". Nêú một vị thầy không có ý muốn dạy tôi, song do vì tôi trả tiền nên ông dạy cho tôi, thì như thế ông ta chỉ là một công cụ phương tiện để tôi đạt đến cứu cánh. Còn nêú ông ta có ý muốn dạy cho tôi thành nghề viên mãn, thì ông ta là một "tha lực" hợp tác vớ "tự lực" của tôi. Cũng chính vì thế, trong Phật pháp, khi một pháp sư tuyết pháp không vì Bồ Đề Tâm cứu độ chúng sinh, mà vì lợi dưỡng cung kính và danh vọng thì đó là trường hợp "bất tịnh thuyết pháp". Vì lúc đó pháp sư không còn là một "tha lực" nữa, mà chỉ còn là một công cụ, phương tiện của các thính giả mong muốn nghe pháp.

Lại khi tôi muốn làm một công việc mà không nhưng tôi chưa có được một hiểu biết căn bản tố thiểu nào hết về công việc ấy, mà tôi cũng chưa có được một chuẩn bị tố thiểu nào hết, thì "tha lực" ở đây càn quan trọng và biến rộng hơn nữa. Chẳng hạn như tôi muốn nâú món thuốc trường sinh, nêú lại có một vị tiên trưởng nào đó mong muốn chỉ dại cho tôi, chắc chắn là tôi không thể bắt tay ngay vào việc nâú luyện được, mà còn phải biết bao nhiêu công việc chuẩn bị khác nữa, có thể chính tôi còn phải trai tịnh và lánh xa vào hang hốc v.v...Tôi phải tuyệt đố nghe lời vị tiên trưởng và phải thực hành biết bao nhiêu là phương tiện chuẩn bị như thế mà tôi không bao giò ngờ trước được.Tôi có thể nản lòng và buông ý muốn ấy. Thế nên "tha lực" của vị tiên ở đây không phải chỉ hạn khuôn trong kiến thức về thuốc của ông, mà ông còn phải ra sức thuyết phục và khuyến khích làm sao cho tôi không bỏ cuộc nữa. Nêú "tha lực" lúc ấy không đủ mạnh và trải rộng thì "tự lực" của tôi tiêu tán liền.

Trong cuộc sống của chúng ta, có biết bao nhiêu công việc của thế gian thôi mà đả đòi đủ thứ phương tiện rất phức tạp, đòi hỏi thời gian phải lâu dài, bắt người mong muốn thực hiện công việc ấy phải trải qua nhiều mệt mỏi về thể xác cũng như tinh thần. Nêú không có "tha lực", dù là loại "tha lực" phụ thuộc thôi, người ấy sẻ không cách gì đạt đến cứu cánh được, huống gì là thiêú cả "tha lực" chính yêú. Một học sinh muốn thành bác sĩ, cần phải có "tha lực" phụ thuộc của cha mẹ cho tiền ăn học, phải có "tha lực" chính là giáo sư, phải có đủ phương tiện như học giỏi, khỏe mạnh trường ốc, sách vở đầy đủ v.v...lại phải lại phải kiên nhẫn trong khoản thời gian bảy tám năm...lại hầu hết tât cả phương tiện đều do "tha lực" mang lại: trường học do "lực" của chính phủ, thợ xây; sách vở do "lực" của thầy viết, thợ in v.v...

Lại nữa như chúng ta đã xác định, "tự lực" chính là " ý muốn cá nhân". Song ý muốn của con người lại bị qui định, bị điều khiển bởi môi trường và hoàn cảnh xung quanh. Một anh mọi ở trong rừng không bao giờ có ý muốn làm bác sĩ y khoa, bởi trong môi trường anh ta sinh sống không có nghề y khoa, không có các y sĩ , không có các môn y khoa, không có các trường học y khoa...Anh ta chỉ có được các ý muốn sẽ là người giết nhiều cọp nhất. Sở dĩ anh có ý muốn này cũng do các người xung quanh, lớn hơn hay bằng hay nhỏ hơn, đều thích thú như vậy, nên đả ảnh hưởng đến anh tạ nêú thế " ý muốn" tức "tự lực" của anh ta cũng là do "tha lực" mà nên vậy.

Vậy, xét kỹ trong thế gian này từ việc nhỏ đến việc lớn, luôn luôn "tha lực" có mặt và hoạt động khắp mọi nơi, nhất là càn tiến đến các công việc to lớn, quan trọng. Vậy thì công việc chứng nhập Niết Bàn giải thoát ba cõi, sinh có khó khăn và quan trọng gì lắm không, mà chúng ta có thể "tự lực" là hoàn toàn đủ đủ để đạt đến cứu cánh viên mãn rôì?!

Chúng ta đả xác định rõ là khi nói đến "tự lực" là nói đến ý muốn của mình. vậy khi một người tu tập xưng là tôi "tự lực", là người ấy "muốn" gì đây? Thường chúng ta trả lời "tôi muốn giải thoát" hoặc "tôi muốn thành Phật". Khi chúng ta noí như thế thật ra chỉ là nói một cách lấy lệ. "Giải thoát" và "thành Phật" không phải chỉ là một sáo ngữ để mà nói, cũng không phải chỉ các ý nghĩa của lý tưởng cao đẹp. Mà "giải thoát" va "thành Phật" phải là ý muốn thật sự của hành giả. Thật sự mà nói, không ai trong ba cõi nay lại có thể có được cái ý muốn "giải thoát" và "thành Phật" một cách chân xác và đích thực được. Bản chất của chúng sinh vốn tham, sân, si và ngã chấp làm căn bản, nên luôn luôn chúng sinh có đầy ắp sẳn vô lượng ý muốn tái sinh và luân hôì. Song các ý muốn "giải thoát" và "thành Phật" vốn đi ngược lại vớ bản chất chúng sinh không bao giờ thật sự phát khởi lên các ý muốn ấy được!

Vậy khi một người trong đạo Phật ra sức tu tập thì đó là "tự lực" hay "tha lực" đây? Chúng ta đã biết rằng là tu tập tức là lực áp dụng vào phương tiện để nhằm đạt đến cứu cánh: "lực" ấy xuất phát từ ý muốn, nhằm làm thỏa mãn ý muốn ấy, tức đạt đến cưu cánh. Vậy thử hỏi xem lực tu tập của người ấyphát xuất từ ý muốn nào để nhằm thỏa mãn ý muốn ấy qua cứu cánh nào? Thật ra chúng ta đều mù mờ về ý muốn thúc đẩy mình tu tập. Nếu thật sự chúng ta tu tập là do vì muốn "giải thoát" và "thành Phật", thì hai ý muòÍn này sẽ phát sinh ra các năng lực mạnh mẽ không thể tưởng tượng nổi, và không có một chướng ngại nào có thể ngăn sự tiến tơi cứu cánh của chúng ta được. Đại biểu như Đức Phật khi ngài khởi lên ý muốn giải thoát lúc còn làm thái tử, thời cung vàng, điện ngọc, chức vị, dân thần v.v...đều không cản được bước chân Ngài. Cho đến các hành khổ hạnh, các thiền định tố cao cũng không chận Ngài lại được. Ngài phải giải thoát, phải đạt đến cho bằng được cứu cánh "giải thoát" của Ngài mớ thỏa mãn được. Rôì chưa hết Ngài còn thuyết pháp độ sinh ròng rã hơn bốn mươi năm trời, thì cái ý muốn "thành Phật"của Ngài mớ mãn nguyện được. Và, theo Đại thừa, vẫn còn chưa hết, Ngài không bao giờ thật sự diệt độ, mà luôn luôn còn tiếp tục ứng hiện vĩnh viễn độ sinh, thì cái ý muốn đại bi cứu độ tất cả chúng sinh của Ngài mớ toại nguyện. Như thế năng lực hoạt động của đức Phật là bất tận, vì ý muốn "giải thoát" và "thành Phật" của Ngài thật sự là bất tận.

Thếnên cho dù chúng ta có thật tâm tu hành là vì muốn giải thoát và thành Phật đi nữa, thì ý muốn của chúng ta cũng chưa thuần túy và đúng mức. Bởi vì ý muốn này của chúng ta còn pha trộn vớ rất nhiều ý muốn thế tục khác, và có còn rất nhiều ý kiến và quan niệm thế tục khác còn hoạt động rất mạnh trong tâm chúng ta, làm thu nhỏ lại năng lực của ý muốn giải thoát và thành Phật. Chẳng hạn tôi tuy muốn giải thoát nên tu hành, song tôi vẫn chấp nhận hạnh phúc gia đình là "êm ấm" và "có lý ". Chẳng hạn tôi muốn thành Phật song vẫn công nhận các thông minh của văn minh thế gian là đáng phục và các trí huệ của ngoại đạo là đáng nể. Chính vì thế ý muốn "giải thoát" và "thành Phật" thật sự không bao giờ bắt rê?Và thật sự là suố nguồn bắt sinh năng lực tu tập của chúng ta. Lại nữa vì chúng ta chưa được "giải thoát", chưa được "thành phật" thế nên chúng ta không sao "cảm" được thế nào là thành Phật, thế nào là giải thoát để mà thật sự phát khởi lên ý muốn về "giải thoát" và "thành Phật" được. Do đó chắc chắn chúng ta không thể có được ý muốn "giải thoát" và "thành Phật" chân thật và đúng nghĩa được.

Ý muốn "giải thoát" và "thành Phật" ấy chưa phải thật sự là ý muốn của mình, lại cng chưa thật sự thuần túy và "đúng mức", thì làm sao phát sinh được năng lực tu tập đây? Song nêú "tự lực" đã chẳng có, thì tại sao lại biết bao người căn cứ tu hành tu tập hết thế hệ này đến thế hệ khác như vậy? Nêú tôi thật sự không có ý muốn "giải thoát" và "thành Phật", thì mọi hoạt động đang tu hành của tôi ở đây là xuất phát từ "lực" nào, không lẻ lại từ lực thế gian của các ý muốn thuộc về căn bổn tham sân si và chấp ngã hay sao?

Ngoại trừcác trường hợp tu tập vớ các ý muốn giả dố bất tịnh ra, còn thì, nêú chúng thẩm sét cho thật thâú đáo, tất cả các thánh đệ tử trực tiếp vớ đức Phật, rôì trải qua bao thế hệ cho đến các người tu hành ngày nay, các lực tu hành của bằng đó người đều không phải là "tự lực", mà chính lại là "tha lực". "Tha lực" chính yêú này chính là "Phật lực".

Lại, nữa khi nói không có "tự lực", thì chỉ có nghĩa là năng lực thúc đẩy, sử dụng thân, khẩu, ý của tôi tu hành theo Phật pháp, không phải là "tự lực" mà là "tha lực", chớ không có ý nói "tự lực" hoàn toàn là không có. Mà "tự lực" ở đây, như ở trên đã có trình bài, chỉ là tùy thuận theo "tha lực", nghĩa là dứt khoát tin tưởng vào "tha", tức là Phật, bậc thầy gốc. Tôi đã biết giải thoát hay Niết Bàn thật sự là vì đâu mà "muốn" để rôì tu. Mà do vì tôi "tin" vào lời Phật. Phật nói Niết Bàn giải thoát là cứu cánh, muốn đạt đến cứu cánh ấy hãy tu tập. Phật thật sự "muốn cứu" tôi, muốn đưa tôi đến Niết Bàn, từ ý nguyện ấy ngài phát sinh năng lực thuyết pháp, gọi là "tha lực". "Tha lực" ấy hợp tác vớ "tự lực" tin tưởng của tôi mà thành ra năng lực thực hành tu tập của tôi theo lời Phật dạy.

"Tự lực" ở đây thật sự chỉ đóng vai trò lòng tin thôi hay sao? Đúng vậy, bởi chúng ta đừng quên rằng "lực! là ý muốn. Sự tu tập ở đây được thực hành bởi năng lực phát động từ ý muốn "giải thoát". Mà ở đây ý muốn giải thoát thật sự chỉ có phật mớ có đúng nghĩa, còn nơi tôi, ý muốn ấy rất tạp uế và lỏng lẻo, không thể phát sinh "lực" chân chính được. Do đó hoạt động tu tập của tôi muốn được đúng nghĩa và thanh tịnh, bắt buộc phải phát sinh từmột năng lực thanh tịnh của một ý muốn thanh tịnh. Và chỉ có Phật mớ có ý muốn "giải thoát" hoàn toàn thanh tịnh vậy.

Thế nên, không phải rằng là tôi không được quyền "tự lực" tu tập, mà bắt buộc phải tùy thuận theo "tha lực". Song một khi ý muốn giải thoát của tôi chưa hề thuần túy thanh tịnh, chưa có chút gì vưng chắc, và còn pha đủ thứ tạp uế, thì "tự lực" tu tập của tôi chỉ là một đại họa. Và đó cũng là lý do tại sao người tu cũng nhiều mà nguời đọa cũng lắm.

Trái lại trong suốt đoạn đường tu tập từ lúc mớ bắt đầu cho đến khi giải thoát hay thành Phật, muốn cho sự tu tập được đúng nghĩa, thanh tịnh và đạt đến cứu cánh chân chính, "tự lực" của tôi chỉ là hoàn toàn tin tưởng và tùy thuận theo "tha lực". Trên phương diện hiện tượng, tôi vẫn làm chủ mọi hoạt động tu tập của tôi. Song cái năng lực cùng ý muốn thúc đẩy tôi tu tập chính là năng lực và ý muốn của Phật (như thí dụ người chủ sai tôi ăn trộm ở trên), do đó mà sự tu tập của tôi được thuần túy và thanh tịnh. Ngoài ra cũng nhờ"tha lực" như thế, mà các ý muốn thế tục hệ thuộc tham, sân, si và chấp ngã của tôi được dần dần điều ngự.

Càn đi sâu vào chân lý "giải thoát" hay "thành Phật", "tha lực" càng cần thiết, càng chính yêú, "tự lực" càn tin tủng thiết tha, càng thâm tín "chết bỏ". Chứng có cho thấy là các vị thánh tăng, các bật tổ sư, các cao tăng, tin Phật một cách tuyệt đố, tin từng lời từng chử của kinh điển. Trong khi các hạng tu lơ mơ như chúng ta thì nghi ngờ điều này, đặt vấn đề kia: "kinh này không phải Phật nói, kinh kia là của người đời sau biên tập lại v.v..."

Đặc biệt trong Đại thừa Phật giáo, "tha lực" hay "Phật lực" là động lực chủ chốt của toàn thể lịch sử

Chỉ có Phật mới hoàn toàn chứng thực được và biết rõ chân lý cứu cánh là gì. Đại Bát Niêt Bàn kinh nói, thập địa bồ tát mà chỉ nhìn thây pháp thân lờ mờ như qua lớp vải mỏng. Như vậy mà các bồ tác vẫn tiếp tục tu tập đến cùng để đạt đến Phật quả cứu cánh, chính là do "tự lực" tin vào "tha lực", tức ý muốn của đức Phật muốn các Bồ Tát hãy thành Phật quả, qua các lời lẽ thuyết giảng chỉ bày của ngài. Trong Đại Bát Nhã kinh khi tôn giả Tu Bồ Đề thuyết và Bát Nhã cho các Bồ Tác nghe, ngài khẳng nhận là nương vào Phật lực mà thuyết bởi ngài đâu hề thật sự có ý muốn khai ngộ cho các chúng sinh thành Phật, nên ngài thật sự đâu có "lực" để thuyết về Bát Nhã. Nhưng nay ngài đứng ra thuyết về Bát Nhã là vì ngài hoàn toàn tin tưởng vào đức Phật muốn thuyết Bát Nhã cho Bồ Tác, thế nên "lực" đó của Phật vận động ngài thuyết vậy. Ngoài ra tất cả các Bồ Tác khác trong cac kinh điển khác dù là đặt câu hỏi thôi, cũng thật sự là nương vào lực Phật mà vấn đáp.

Tóm lại lực hoàn toàn tùy thuộc vào " ý muốn". Và ý muốn chỉ phát sinh trong điều kiện của kinh nghiệm và hiểu biết, nghĩa là tôi có biết rõ hay từng kinh nghiệm về một điều gì đó, tôi mớ có thật sự có ý muốn hay không đố vớ điều ấy. Thí dụ tôi có ăn táo rôì, có biết nó ngon hay dở, thì rôì từ đó tôi mớ có ý muốn ăn táo hay không. Còn vớ lông rùa hay sừng thỏ thì tôi muốn mà làm gì, vì chúng hoàn toàn đâu thật có vớ tôi đâu. Cũng vậy Niết Bàn tam thân Phật, tứ trí, chân như, tự tính, độ vô lượng vô biên chúng sinh trong khắp mười phương các cõi nhiều như vi trần trong vô lượng cõi Phật v.v...đều hoàn toàn là các chuyện không thật có đố vớ tôi, y như lông rùa, sừng thỏ vậy. Vậy tại sao tôi lại chấp nhận tất cả các pháp ấy? ầ, vì tôi tin Phật. Và tại sao tôi lại lấy các pháp ấy làm lý tưởng cứu cánh để tu hành? ầ, vì Phật muốn vậy, tức nghĩa là vì "Phật lực" vậy.

Nêú tôi không tin Phật nữa, tất cả mọi sự tu hành của tôi sẻ chấm dứt, và tất cả các pháp ấy sẻ thật sự là lông rùa sừng thỏ mà thôi. Chính vì thế "tha lực" gắn bó chặt chẻ vớ "tín lực". Nhất là vớ Đại thừa, chúng ta phải phát tâm "thành Phật" ( tức Bồ Đề tâm" ngay trong lòng tham, sân si, chúng ta phải thực hành Bồ Tát đạo ngay trong khi còn đang ở trong giai đoạn phàm phụ và chúng ta chỉ có làm nổi như thế duy nhất là bằng vào "tin lực" mà thôi. Giác ngộ và giải thoát Niết Bàn là các pháp vượt quá xa ngoài tấm giớ của khả năng chúng ta. Nhưng nêú có đủ hai năng lực như sau chúng ta có thể đạt được hai pháp ấy, hai năng lực đó là: "tha lực" và "tín lực". "Tha lực" xuất phát từ tâm nguyện (tức ý muốn) độ sinh của đức Phật, "tín lực" xuất phát từ lòng tin tuyệt đố của chúng ta vào ngài. "Tha lực" đả hoàn toàn hoàn tất: Đức Phật đã thành Phật, đã nổ lực gây dựng nên Tam Bảo làm nơi nươong tựa và hướng đi cho chúng ta. Theo Đại thừa thì ngài thật sự nhập diệt phân thân xá lợi đi khắp mọi nơi; Ngaì tiếp tục chuyển pháp luân, thúc dục các đệ tử phát Bồ Đề tâm thành Lục đô. Bồ Tát đạo, nguyện không bỏ chúng sinh và sẻ độ thoát hết tất cả chúng sinh; Ngài tiếp tục hoạt động qua ba thân để đáp ứng lại căn tính của tất cả chúng sinh mà cứu độ họ; Ngài giớ tiệu các tịnh độ của chư Phật để tiếp độ chư chúng sinh v.v...toàn thể mọi "Phật hành" ấy là do một năng lực bất tận thúc đẩy và điều động. Năng lực nầy xuất phát từ tâm nguyện (tức ý muòÍn) độ tất cả chúng sinh của đức Phật. Đố vớ chúng ta đó là "tha lực", là "Phật lực". Đức Phật đã làm không sót một chút gì nữa đối vớ công việc độ sinh, thế nên "tha lực" này hoàn toàn viên mãn hoàn hảo. Còn lại là phần của chúng ta mà thôi, phần tin tưởng của chúng ta, "tín lực" của chúng tạ

Nêú "tín lực" của chúng ta thuần khuyết, nghĩa là hoàn toàn tùy thuận vớ "tha lực", "tha lực" này sẻ phát huy được hết ra toàn thể hoạt động của nó, như Ban Châu Tam Muội kinh diễn tả người nhập tam muội niệm Phật này, thì sẻ thấy được mười phương chư Phật hiện tiền. "Tha lực" ấy sẻ làm chủ ba nghiệp thân, khẩu, ý của chúng ta, sẻ điều động và sử dụng các nghiệp ấy hoạt động tu tập thanh tịnh và đúng cách để đạt đến cứu cánh viên mãn. Thân, khẩu ý ví như chiếc xe của chúng ta; tâm căn bản của chúng ta ví như người chủ chiếc xe, song rố loạn hoàn toàn, không biết rõ đâu là đường lố nữa; "tha lực" hay "Phật lực" là người hoàn toàn biết rõ mọi đường lố và sẻ lèo lái chiếc xe ấy dùm chúng ta để đưa chúng ta đến đúng nơi chổ: "tín tâm" là tâm tin tưởng hợp tác, bằng lòng ngôì yên giao phó cho "tha lực" lái chiếc xe "thân khẩu ý " hộ mình.

Người tu tập nào không hiểu rõ ý nghĩa "tha lực" và "tín lực" này, sẻ cho đó là yếu đuố, không "anh hùng". Họ do đó để cho bản ngã tự tung tự tác. Bản ngã thích "sở đắc", thế nên nó luôn luôn vơ hết tất cả mọi hoạt động tu tập xuất phát từ "tha lực" về phần nó. Nó loay hoay hết niệm này sang niệm khác nào là "tôi làm được điều này, tôi đã làm được điều kia, tôi đã đến múc này, tôi đã nắm vưng đưọc pháp nọ ,tôi đã thấy, đã kinh nghiệm được chiều sâu thăm thẳm này của Phật pháp...". Nó như thế "tự lự" hêt kiếp này sang kiếp khác. Nó quên lãng "lòng tin", nó từchố "tha lực", thế nên nó không bao giò thâm nhập vào Phật pháp được. Nó là gôc của tất cả mọi "nhiểm ố" mà Duy Thưc đặt tên cho là Mạt Na Thức.

Chính vì thế, lối tu tập của Đại thừa Phật pháp không phải là vội vã đưa ngay ra kỷ thuật thiền định kia, cũng không phải căn bản đầu tiên là giớ lực thanh tịnh cá nhân, mà chính là sự tôi luyện của "tín tâm" và "Bồ Đề tâm" vậy.

Như trên đã nói, chúng ta không bao giờ có sẳn Bồ Đề tâm, mà bản chất của chúng ta cũng không bao giờ săĐ sàng thích ứng vớ Bồ Đề tâm. Cũng chính vì thế tâm của chúng ta cũng sẳn sàng không chịu tin tưởng vào Bồ Đề tâm. Muốn thành tựu Phật quả chúng ta phải thành lập cho được Bồ Đề tâm trong tâm thức mình, vì Bồ Đề tâm là chính nhân của Phật quả. Muốn thành lập được Bồ Đề tâm chúng ta phải thành lập cho được tín tâm vào các pháp siêu việt này của chư Phật.

Bồ Đề tâm tron g giai đoạn này ching là "Phật lực", là "tha lực". Vì đó chính là ý muốn của đức Phật mong muốn chúng ta phát Bồ Dề tâm vậy. Làm theo ý muốn của ngài, tức chấp nhận "tha lực" và chuyển "tự lực" thành tin tưởng tuân hành mà thôi.

"Tín tâm" không dể thành lập chút nào. Vì "tín tâm" chân chính là phải đi ngược lại vớ bản ngã, đi ngược lại ý muốn của phiền não thế gian. Do đó, một khi "tín tâm" thành tưu. sẻ có công năng điều phục bản ngã và điều ngự phiền não thế gian ( tức tham, sân, si). Một "tín tâm" chân chính đòi hỏi phải phổ biến và hoạt động trên tất cả các pháp. thẽÍ nên "tín tâm" không thuần túy chỉ là một tâm thưc tin tưởng, mà là một hoạt động trên thân khẩu ( như lê? Phật, tán thán Phật), trên tâm ý (như quán tưởng Phật, quốc đô. Phật, phật hành, phật đức), trên sắc (như thờ hình tượng bằng gở, đá, kim laọi), trên hương (như cúng dường hoa), Trên vị (như cúng dường cây trai , đồ ăn ), trên xúc (như cúng dường y áo, hay lập bàn thờtrang nghiêm), trên pháp (như nghe pháp, suy nghỉ về ý nghĩa của pháp), trên hành nghiệp (như nguyện sinh về quốc đô. Phật, để thừa sự vô lượng vô biên chư Phật, cúng dường, tán thán, thân cận..., hay nguyện thường không bao giờ rời xa chư Phật...). Tất cả mọi hoạt động đó của hành giả, chính là sự thực hành tu tập tín tâm cho chân chính và vưng chắc vậy. Kể ra các hoạt động quy y Tam Bảo, thọ tại gia giớ của người Phật tử tại gia, cũng chỉ là các hoạt động thực hành việc tu tập "tín tâm" mà thôi.

Đó là tât cả phần "tự lực" của chúng ta vậy. Dỉ nhiên "tín tâm" càn thâm sâu, thì "tha lực" càn phát tâm mạnh vào "tự lực". Nghiả là dần dần trong tiến trình tu đạo, do tin tưởng và do Phật pháp (tức "tha lực") dạy bảo, chúng ta sẻ đủ sức thực hành các việc khó thực hành hơn nữa của Lục Độ Ba La Mật v.v...Nhưng dù có thể xả thân này để bố thí cho chúng sinh, hành giả dẫn phải thấy rõ đó chỉ là "tha lực" mà thôi, chứkhông phải là một thành tích của "tôi". Cho đến bao giờ thực hành đến Bát Nhã Ba La Mật, thời ranh giớ phân ranh giữa "tín tâm" và "Phật lực", giữa "tự lực" và "tha lực", sẻ hoàn toàn mất dâú. "Tự lực" hay "tha lực" chỉ là nhân suyên đôi đãi, hoàn toàn không thật có, nói cùng hết lẻ thật thời "không có gì hết". Từ chổ chân thật nhất là KHÔNG ấy, nhìn lại vấn đề "tự lực" và "tha lực", thời ý nghĩa chân chính của Bồ Đề tâm sẻ xuất hiện, cho hành giả thật chứng và thật hành vậy. Nhưng đó là vân đề còn xa xôi.

Tóm lại vẫn còn có rất nhiều hiểu lầm và ngộ nhận như là Đại thừa Phật giáo chỉ là tu hình thức; đã biến đạo Phật trở thành một tôn giáo thờ phượng cầu kỳ; biến Đức Phật thành một thượng đế; đã phóng đại ý nghiả về Đức Phật quá đáng; sự lể lạy, tôn thờ, cúng dường không phải là tu tập và không có ích gì hết; tụng niệm chỉ là một nghi lể văn hóa chứ không phải là pháp môn tu tập v.v...

Sự hiểu lầm ấy là quyền tự do của mọi người, nhưng nêú chúng ta đã là một Phật tử Đại thừa, mà cũng hiểu lầm như thế thì thật là đáng tiếc! Để giải tỏa các ngộ nhận như thế, điều cân thiết nhất là phải quay trở về với tất cả các Phật pháp cơ bản nhất để hiểu cho thật rõ ràng về ý nghĩa và hướng đi của Đại thừa vậy.

Thích Nhất Chân


Tin mới hơn:
Tin cũ hơn: